Khi Chúa muốn rèn luyện một người
Muốn tôi luyện một người
Đứng ra đảm nhận sứ mạng cao cả
Khi Chúa muốn tạo nên một người
Một người đủ cam đảm và mạnh mẽ
Để sau này nhân loại ngợi ca
Hãy xem Chúa làm thế nào
Hãy xem Chúa tôi luyện người đó một cách không thương xót
Người mà Chúa đã lựa chọn
Chúa rèn người đó
Làm cho người đó đau đớn
Và với những thử thách khắc nghiệt nhất
Làm biến đổi người đó
Hình thành nên những đức tính cần thiết cho sau này
Khi người đó đau đớn
Khi trái tim người đó rỉ máu
Chúa vẫn tiếp tục tôi luyện
Chúa vẫn tiếp tục tôi luyện
Nhưng không bao giờ làm hỏng người đó
Chúa nung chảy người đó
Và bằng mọi cách khích lệ người đó
Thử hết sức mình
Chúa biết dự định của mình…
Khi Chúa muốn tạo nên một người
Muốn thức tỉnh một người
Để giao phó một sứ mạng trong tương lai
Chúa làm tất cả
Để tạo nên một người vĩ đại và hoàn chỉnh
Chúa khôn khéo chuẩn bị cho người đó
Những đức tính cần thiết
Chúa khiêu khích người đó
Rồi lại khích lệ người đó
Nhưng không bao giờ làm hại người đó
Và trong khó khăn nâng đỡ người đó
Chúa làm cho người đó thất vọng
Và đôi khi đưa người đó vào hoàn cảnh tuyệt vọng
Nhưng khôn ngoan che chở cho người đó
Cho dù đôi khi tài năng của người đó bị mọi người bỏ qua
Nhưng người đó vẫn tiếp tục cố gắng
Và những khi cô đơn…
Người đó dần hiểu ra những điều Chúa muốn nhắn nhủ với mình
Những điều Chúa dự định
Mặc dù người đó không hiểu
Nhưng đã cho người đó nghị lực để cố gắng
Chúa không ngừng thúc giục người đó tiến lên
Thúc giục người đó tiếp tục cố gắng
Người mà Chúa đã lựa chọn kỹ càng
Khi Chúa muốn tôn vinh một người
Muốn thuần dưỡng một người
Muốn khích lệ một người
Đứng ra đảm nhiệm một sứ mạng cao cả
Chúa đưa ra những thử thách khắc nghiệt nhất
Những thử thách để rèn nên một con người cao cả
Chúa tôi luyện người đó
Thử thách người đó
Hun đúc người đó
Và truyền cho người đó khát vọng
Những khát vọng cháy bỏng
Về một mục đích cao xa
Chúa hứa hẹn người đó
Rồi lại làm tan nát trái tim người đó
Đặt ra những thử thách
Rồi lại đặt ra những thử thách mới khi người đó gần vượt qua
Bắt người đó băng rừng, lội suối
Bằng cách đó Chúa đã tạo nên một người
Và để thử thách lần cuối
Chúa đưa ra một lựa chọn nghiệt ngã
Chúa đặt một ngọn núi chắn đường
Và nói với người đó:
“Con phải vượt qua hoặc là chết!”
Chúa đã rèn một người như vậy
Không ai hiểu được
Những điều Chúa sắp đặt
Nhưng thật sai lầm nếu nghĩ Chúa đui mù
Khi bàn chân của người đó bầm nát và chảy máu
Tinh thần của người đó vẫn vượt lên trên tất cả
Soi sáng và khai phá những con đường mới cho nhân loại
Vượt qua mọi chông gai và trở ngại
Người đó vẫn không mất đi lòng nhiệt huyết của mình
Rồi đến một ngày kia…
Khi mọi niềm hy vọng bị dập tắt
Khi thế giới xảy ra khủng hoảng cần một bàn tay dẫn dắt
Khi tất cả mọi người cần một niềm tin
Lúc đó có một người đứng lên dẫn dắt mọi người
Và chỉ đến khi đó mọi người mới hiểu dự định của Chúa
Và khi đó nhân loại tìm ra: một người!
Chú thích:
Nature: dịch nguyên văn là Mẹ Thiên Nhiên, Đấng Tối Cao, Chúa. Ở đây có thể tạm hiểu là Luật công bằng.
Có vài câu tôi không hiểu rõ ý tác giả nên không dịch. Hy vọng không làm mất đi ý của toàn bài thơ.
Bình Luận:
Bài thơ này được nữ thi sĩ Angela Morgan (người Mỹ) viết năm 1918. Vào thời điểm thế giới đang có nhiều biến động quanh Thế chiến lần thứ nhất. Bài thơ này là một ví dụ tuyệt vời minh chứng cho Luật thử thách. Bài thơ đề cập quá trình Chúa thử thách và tôi luyện một con người để sau này người đó trở thành một người dẫn dắt nhân loại.
Cũng như nữ thi sĩ Angela, tôi tin rằng những khó khăn, những mất mát và những thất bại là những công cụ tốt nhất để qua đó, Chúa thử thách và rèn luyện một con người, kẻ mà sau này Người sẽ lựa chọn để thực hiện những sứ mạng của mình. Người muốn tin chắc rằng kẻ được Người giao phó sẽ có đủ những năng lực cần thiết để có thể thực hiện được sứ mạng của mình. Thông qua thử thách, Người gạn lọc và loại bỏ những căn bã của người đó. Thông qua thử thách, Người muốn tôi luyện để người đó có thể đứng vững và vượt qua được những thử thách khắc nghiệt nhất.
Kẻ được Người lựa chọn thực hiện những sứ mạng cao cả phải vượt qua những thử thách gì? Người đó phải trải qua những mất mát tưởng chừng như không gì bù đắp nổi. Người đó phải trải qua những đau đớn về thể xác và tinh thần tưởng chừng như không thể chịu đựng nổi. Người đó phải trải qua những giờ phút ở sâu dưới đáy cùng của tuyệt vọng và cuộc đời kẻ tưởng chừng như không có lối thoát, không còn đường ra.
Nói tóm lại, người đó phải trải qua rất nhiều đau đớn, thất bại và vấp ngã. Nhưng vượt lên trên tất cả, người đó vẫn âm thầm và lặng lẽ cố gắng và không bao giờ đánh mất đi niềm tin và lòng nhiệt huyết của mình.
Nhưng tôi tin rằng nhất định đến một ngày thế giới cần đến những con người như vậy. Những con người đứng trước những cơn dông tố bão bùng, trước những tiếng sấm rền vang vẫn không nao lòng. Những con người biết trấn an mọi người trong cơn hoảng loạn nguy biến. Những con người biết nắm lấy bàn tay và dẫn đắt mọi người, những con người đang lầm đường lạc lối. Những con người biết nhìn xa trông rộng, biết dung hòa những điều không thể dung hòa, biết soi sáng và mở những con đường mới cho nhân loại…
When Nature Wants a Man
Angela Morgan
When Nature wants to drill a man
And thrill a man
When Nature wants to mould a man
To play the noblest part
When she yearns with all her heart
To create so great and bold a man
That all the world shall praise
Watch her method, watch her ways!
How she ruthlessly perfects
Whom she royally elects
How she hammers him and hurts him
And with mighty blows converts him
Into trial shapes of clay which only Nature understands
While his tortured heart is crying and he lifts beseeching hands!
How she bends, but never breaks
When his good she undertakes
How she uses who she chooses
And with every purpose fuses him
By every art induces him
To try his splendor out
Nature knows what she’s about
When Nature wants to take a man
And shake a man
And wake a man
When Nature wants to make a man
To do the Futures will
When she tries with all her skill
And she yearns with all her soul
To create him large and whole
With what cunning she prepares him!
How she goads and never spares him
How she whets him and she frets him
And in poverty begets him
How she often disappoints
Whom she sacredly anoints
With what wisdom she will hide him
Never minding what betide him
Though his genius sob with slighting and his
Pride may not forget!
Bids him struggle harder yet
Makes him lonely
So that only
God’s high messages shall reach him
So that she may surely teach him
What the Hierarchy planned
Though he may not understand
Gives him passions to command
How remorselessly she spurs him
With terrific ardor stirs him
When she poignantly prefers him!
When Nature wants to name a man
And fame a man
And tame a man
When Nature wants to shame a man
To do his heavenly best
When she tries the highest test
That her reckoning may bring
When she wants a god or king!
How she reigns him and restrains him
So his body scarce contains him
While she fires him
And inspires him!
Keeps him yearning, ever burning for a
Tantalizing goal
Lures and lacerates his soul
Sets a challenge for his spirit
Draws it higher when he’s near it
Makes a jungle, that he clear it
Makes a desert, that he fear it
And subdue it if he can
So doth Nature make a man
Then, to test his spirit’s wrath
Hurls a mountain in his path
Puts a bitter choice before him
And relentless stands o’er him
“Climb, or perish!” so she says
watch her purpose, watch her ways!
Nature’s plan is wondrous kind
Could we understand her mind
Fools are they who call her blind
When his feet are torn and bleeding
Yet his spirit mounts unheeding
All his higher powers speeding
Blazing newer paths and fine
When the force that is divine
Leaps to challenge every failure and his ardor still is sweet
And love and hope are burning in the presence of defeat
Lo, the crisis! Lo, the shout
That must call the leader out.
When the people need salvation
Doth he come to lead the nation
Then doth Nature show her plan
When the world has found: a man!
Đọc thêm!
Kính lạy Đức Chúa Trời! Con nhận biết con là người có tội cần được sự tha thứ. Con tin chắc rằng Đức Chúa Giê-su đã giáng thế, sống một cuộc đời hoàn hảo, và chịu chết đền tội cho con trên thập tự giá, Ngài cũng đã sống lại để con được sự sống vĩnh cửu. Con xin ăn năn mọi tội lỗi và đặt lòng tin nơi Chúa ngay giờ này. Con xin Chúa ngự vào lòng con để hướng dẫn con trên bước đường theo Chúa. Con tạ ơn Chúa và cầu nguyện nhân danh Đức Chúa Cứu Thế Giê-su. Amen.
Hiển thị các bài đăng có nhãn Đức tin. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Đức tin. Hiển thị tất cả bài đăng
Chủ Nhật, 21 tháng 11, 2010
Thứ Tư, 17 tháng 11, 2010
Niềm tin
Có một chàng trai không hề tin vào sự tồn tại của Thượng đế. Không phải là vì anh không muốn tin: Anh đã đăng ký mọi khóa học về tâm linh mà anh biết và thường xuyên đọc các loại sách về tôn giáo trong thư viện; song sự hiện hữu của Thượng đế dường như vẫn quá mơ hồ. Không điều gì có thể đánh thức được niềm tin của anh. Mối quan hệ của anh với gia đình cũng không suôn sẻ. Anh cảm thấy giữa anh và cha luôn có một rào cản vô hình không thể san bằng. Một ngày, anh đã bỏ nhà ra đi sau trận cãi vã gay gắt với cha mình. Lúc đó, anh chuẩn bị bước vào đại học. Suốt bốn năm sau đó, hầu như họ không liên lạc gì với nhau, cho đến một ngày, chàng trai trẻ nhận được tin báo rằng cha của anh đang hấp hối trên giường bệnh.
Sau nhiều ngày suy nghĩ và trấn tĩnh lại tâm hồn sau bao năm xáo động không yên, anh bắt đầu hiểu rõ những thử thách đang đặt ra trước mắt, đó là vượt qua mối bất hòa của hai cha con. Cuối cùng, anh quyết định về thăm cha lần cuối để nói lời từ biệt.
Ngay lúc bước vào phòng bệnh, hiện ra trước mặt anh là một người đàn ông già yếu và sợ hãi khi cái chết đang gần kề; tất cả sự ngạo mạn và giận dữ ngày xưa đã biến mất. Người cha bỗng bật khóc khi thấy lại con trai mình sau thời gian dài xa cách, và chàng trai cũng cảm thấy vơi đi những ẩn ức trong lòng.
Lần đầu tiên hai cha con họ ngồi tâm sự, cởi mở và chia sẻ với nhau những suy nghĩ dồn nén bấy lâu. Người cha lắng nghe những tổn thương mà ông đã gây ra cho con mình và chỉ xin ở cậu sự tha thứ.
Chỉ trong hai ngày, cha con họ đã phá vỡ mọi rào cản hình thành suốt bao năm xung đột. Chưa bao giờ họ nhận rõ sự thân thuộc và những tình cảm thiêng liêng trong quan hệ cha con như thế. Người cha đã trao cho con những lời yêu thương trước lúc ra đi mãi mãi và chàng trai trẻ cũng đáp lại cha mình bằng tấm lòng của đứa con hối lỗi.
Và vào ngay giây phút anh nói lời vĩnh biệt trước quan tài cha mình, bỗng nhiên anh nhận ra Thượng đế đang ở đó.
“Trong hành trình đến với Thượng đế,
Tôi nhận ra chính mình.
Và trong hành trình tìm kiếm chính mình,
Tôi lại thấy Ngài ở đó.”
- Maxwell Winston Stone
Hãy tránh xa những kẻ luôn tìm cách hạ thấp hoài bão của bạn. Đó là những kẻ ích kỷ chỉ muốn cầm chân bạn lại; còn những người thật sự vĩ đại luôn khiến bạn cảm thấy mình cũng có thể trở nên vĩ đại như họ.
- Mark Twain ( 1835 -1910)
Bạn là tạo vật duy nhất của Thượng đế; vì vậy, đừng bao giờ dễ dàng chấp nhận thay đổi chỉ vì bạn không giống với số đông.
Maxwell Winston Stone Đọc thêm!
Sau nhiều ngày suy nghĩ và trấn tĩnh lại tâm hồn sau bao năm xáo động không yên, anh bắt đầu hiểu rõ những thử thách đang đặt ra trước mắt, đó là vượt qua mối bất hòa của hai cha con. Cuối cùng, anh quyết định về thăm cha lần cuối để nói lời từ biệt.
Ngay lúc bước vào phòng bệnh, hiện ra trước mặt anh là một người đàn ông già yếu và sợ hãi khi cái chết đang gần kề; tất cả sự ngạo mạn và giận dữ ngày xưa đã biến mất. Người cha bỗng bật khóc khi thấy lại con trai mình sau thời gian dài xa cách, và chàng trai cũng cảm thấy vơi đi những ẩn ức trong lòng.
Lần đầu tiên hai cha con họ ngồi tâm sự, cởi mở và chia sẻ với nhau những suy nghĩ dồn nén bấy lâu. Người cha lắng nghe những tổn thương mà ông đã gây ra cho con mình và chỉ xin ở cậu sự tha thứ.
Chỉ trong hai ngày, cha con họ đã phá vỡ mọi rào cản hình thành suốt bao năm xung đột. Chưa bao giờ họ nhận rõ sự thân thuộc và những tình cảm thiêng liêng trong quan hệ cha con như thế. Người cha đã trao cho con những lời yêu thương trước lúc ra đi mãi mãi và chàng trai trẻ cũng đáp lại cha mình bằng tấm lòng của đứa con hối lỗi.
Và vào ngay giây phút anh nói lời vĩnh biệt trước quan tài cha mình, bỗng nhiên anh nhận ra Thượng đế đang ở đó.
“Trong hành trình đến với Thượng đế,
Tôi nhận ra chính mình.
Và trong hành trình tìm kiếm chính mình,
Tôi lại thấy Ngài ở đó.”
- Maxwell Winston Stone
Hãy tránh xa những kẻ luôn tìm cách hạ thấp hoài bão của bạn. Đó là những kẻ ích kỷ chỉ muốn cầm chân bạn lại; còn những người thật sự vĩ đại luôn khiến bạn cảm thấy mình cũng có thể trở nên vĩ đại như họ.
- Mark Twain ( 1835 -1910)
Bạn là tạo vật duy nhất của Thượng đế; vì vậy, đừng bao giờ dễ dàng chấp nhận thay đổi chỉ vì bạn không giống với số đông.
Maxwell Winston Stone Đọc thêm!
Thứ Bảy, 31 tháng 10, 2009
Sau khi chồng mất, tôi phát bệnh thần kinh
Sau cú sốc chồng mất, tôi lại bệnh tật nên đã tìm đến Chúa Jesus. Từ đó, tôi sống với hình ảnh đức Chúa hy sinh cho tình yêu thương nhân loại để cảm thấy nguôi ngoai nỗi đau của mình. Tôi cầu nguyện suốt ngày đêm, và tín hiệu thật đáng mừng, tôi đã dần khỏi bệnh thần kinh. (Tỉnh Thuy Tran)
From: Trinh Thuy Tran
Sent: Sunday, February 08, 2009 10:29 AM
Subject: Chia sẻ với chị Nguyên về nỗi đau mất chồng
Chào chị,
Đọc tâm sự của chị tôi rất thông cảm với chị. Tôi cũng là người vợ mất chồng khi chúng tôi mới kết hôn được 2 năm. Con tôi lúc đó mới hơn một tuổi. Cháu hiện giờ luôn nhắc về papa của nó, nhưng cháu cũng không thể nhớ được chồng tôi như thế nào, thậm chí còn không biết được nỗi đau mất cha như thế nào, vì nó còn quá bé. Hiện giờ cháu sống với tôi, với ông bà ngoại của cháu và hai mẹ con tôi cũng đang tìm cách hồi phục lại sau cú sốc lớn lao đó.
Tôi cũng buồn, và đồng cảm với chị vì những ngày tháng mà chị cùng đồng hành với chồng mình trong bệnh tật, những ngày tháng gợi lại cho người ta đến tình nghĩa con người với nhau thật là đẹp và cao cả. Tôi thì không được chia sẻ với chồng mình, vì anh nhà tôi bị đột tử mà. Cả tôi và anh ấy đều không biết anh bị bệnh tim. Khi anh ấy ra đi rồi, tôi đã bị bệnh thần kinh. Nhưng giờ tôi đã khá hơn, nên mới có thể viết thư chia sẻ với chị chứ.
Sau cú sốc chồng mất, tôi lại bệnh tật nên đã tìm đến Chúa Jesus. Từ đó, tôi sống với hình ảnh đức Chúa hy sinh cho tình yêu thương nhân loại để cảm thấy nguôi ngoai nỗi đau của mình. Tôi cầu nguyện suốt ngày đêm, và tín hiệu thật đáng mừng, tôi đã dần khỏi bệnh thần kinh.
Tôi không dám khuyên chị đi theo Chúa, với tôi tin vào một điều kỳ diệu và tin vào một cõi âm phủ là điều cần thiết, và thật sự chúng ta phải tin. Tôi chỉ nghĩ rằng chồng tôi hiện đã được Chúa gọi đi vì Ngài đã có một chương trình khác cho anh, và có khi anh đang có vợ tại nơi ấy cũng nên.
Vậy tôi mong chị hãy tin, và vững tin nhé, vì đời sống luôn có những điều kỳ diệu. Chúc chị tìm được hướng đi của mình.
vnexpress.net/
Đọc thêm!
From: Trinh Thuy Tran
Sent: Sunday, February 08, 2009 10:29 AM
Subject: Chia sẻ với chị Nguyên về nỗi đau mất chồng
Chào chị,
Đọc tâm sự của chị tôi rất thông cảm với chị. Tôi cũng là người vợ mất chồng khi chúng tôi mới kết hôn được 2 năm. Con tôi lúc đó mới hơn một tuổi. Cháu hiện giờ luôn nhắc về papa của nó, nhưng cháu cũng không thể nhớ được chồng tôi như thế nào, thậm chí còn không biết được nỗi đau mất cha như thế nào, vì nó còn quá bé. Hiện giờ cháu sống với tôi, với ông bà ngoại của cháu và hai mẹ con tôi cũng đang tìm cách hồi phục lại sau cú sốc lớn lao đó.
Tôi cũng buồn, và đồng cảm với chị vì những ngày tháng mà chị cùng đồng hành với chồng mình trong bệnh tật, những ngày tháng gợi lại cho người ta đến tình nghĩa con người với nhau thật là đẹp và cao cả. Tôi thì không được chia sẻ với chồng mình, vì anh nhà tôi bị đột tử mà. Cả tôi và anh ấy đều không biết anh bị bệnh tim. Khi anh ấy ra đi rồi, tôi đã bị bệnh thần kinh. Nhưng giờ tôi đã khá hơn, nên mới có thể viết thư chia sẻ với chị chứ.
Sau cú sốc chồng mất, tôi lại bệnh tật nên đã tìm đến Chúa Jesus. Từ đó, tôi sống với hình ảnh đức Chúa hy sinh cho tình yêu thương nhân loại để cảm thấy nguôi ngoai nỗi đau của mình. Tôi cầu nguyện suốt ngày đêm, và tín hiệu thật đáng mừng, tôi đã dần khỏi bệnh thần kinh.
Tôi không dám khuyên chị đi theo Chúa, với tôi tin vào một điều kỳ diệu và tin vào một cõi âm phủ là điều cần thiết, và thật sự chúng ta phải tin. Tôi chỉ nghĩ rằng chồng tôi hiện đã được Chúa gọi đi vì Ngài đã có một chương trình khác cho anh, và có khi anh đang có vợ tại nơi ấy cũng nên.
Vậy tôi mong chị hãy tin, và vững tin nhé, vì đời sống luôn có những điều kỳ diệu. Chúc chị tìm được hướng đi của mình.
vnexpress.net/
Đọc thêm!
“Ngày thứ sáu tốt lành” ở xứ Cutud
TT - Với hơn 80% dân số theo đạo Thiên Chúa, Philippines là nước châu Á có tỉ lệ người dân theo đạo nhiều nhất. Thứ sáu tuần thánh - ngày tưởng nhớ đức Chúa Jesus bị hành hình - là nghi lễ truyền thống được những người dân theo đạo Thiên Chúa La Mã của làng San Pedro Cutud tổ chức hằng năm với lòng sùng kính đặc biệt.
Trong hôm nay (10-4), để tỏ lòng thành kính trước Chúa, những người sùng đạo tự nguyện để người ta đóng đinh cơ thể mình treo lên thập giá nhằm tái hiện cảnh Chúa Jesus bị hành hình và tử nạn.
Dân làng Cutud tập luyện để chuẩn bị cho ngày lễ - Ảnh: Thế Anh
Cutud là một ngôi làng nhỏ thuộc thành phố San Fernando, cách thủ đô Manila 70km. Vào ngày 9-4-2009, những màn tập dượt cuối cùng để chuẩn bị cho “ngày thứ sáu tốt lành” trong tuần thánh đã kết thúc lúc 15g. Sự bình yên vốn có của một làng quê nghèo đã bị đảo lộn bởi hàng chục ngàn du khách và hàng trăm hãng thông tấn từ khắp nơi trên thế giới đổ về.
Đặc biệt, trong số những người tự nguyện đóng đinh năm nay có ông Ruben Enaje. Đây là lần thứ 23 người đàn ông 48 tuổi mưu sinh bằng nghề vẽ biển quảng cáo này “hiến thân” cho nghi lễ. Ruben Enaje cho biết đây là cách ông tỏ lòng biết ơn Chúa đã cứu ông thoát chết trong vụ rơi từ tòa nhà cao tầng xuống đất nhiều năm trước, lúc ông còn làm thợ xây.
Ông nói: “Trong ngày thứ sáu tuần thánh, chúng tôi không chỉ tái hiện cảnh Chúa bị hành hình như một sự mộ đạo đặc biệt, mà còn cầu mong cuộc sống của dân làng tốt đẹp hơn, thế giới trở nên an toàn và hòa bình hơn”. Chị Belen J. Cabiling, một người dân địa phương, vui vẻ nói: “Tôi rất tự hào về những người đàn ông ở quê tôi, họ là những anh hùng!”.
Mặc dù còn một ngày nữa mới đến ngày tưởng nhớ Chúa Jesus bị hành hình nhưng từ sáng sớm 9-4, hàng trăm thanh niên với chùm thanh tre trên tay đã đổ ra đường hò la, báo hiệu ngày lễ trọng đại ở làng Cutud đã đến. Họ đi thành từng đoàn, cởi trần, bịt kín mặt rồi dùng chùm thanh tre tự quất vào lưng mình đến khi chảy máu. Họ dừng lại ở mỗi góc đường, nằm xuống và để mọi người xung quanh dùng roi quất mạnh vào thân mình như một sự hi sinh vì Chúa. Nhiều người còn dùng cả những mảnh chai vỡ để đánh vào lưng. Với họ, máu chảy càng nhiều đồng nghĩa với lòng mộ đạo càng cao.
Ruben Enaje và những cây đinh sẽ đóng lên bàn tay ông trong “ngày thứ sáu tốt lành”. Đây là lần thứ 23 ông tự nguyện hiến thân cho Chúa - Ảnh: Thế Anh
Tục lệ này xuất hiện ở làng Cutud từ năm 1955, nhưng bị gián đoạn mãi đến năm 1962. Từ đó đến nay người dân địa phương vẫn tổ chức nghi lễ này đều đặn vào mỗi năm. Bốn giờ trước khi tiến hành lễ đóng đinh, đàn ông xếp thành hàng dài, chìa lưng cho roi tre và gậy bọc mảnh chai vỡ quần nát thịt da. Máu đỏ phun xuống mặt đường ướt đẫm.
Sau khi tái hiện 14 chặng đường thánh giá của Chúa, dân làng tụ tập tại một khu đất trống để chứng kiến cảnh đóng đinh của những người tự nguyện vào vai Chúa Jesus.
Được chọn vào vai Chúa Jesus trong “ngày thứ sáu tốt lành” là một đặc ân và vinh dự của công dân làng Cutud. Người ta dùng những cây đinh dài chừng 12cm rồi đóng vào bàn tay những người tự nguyện, sau đó treo họ trên thánh giá chừng 10 phút. Được biết năm nay có 12 người đăng ký tự nguyện đóng đinh, tất cả đều là người Philippines. Những năm trước từng có nhiều người đến từ các nước khác đăng ký đóng đinh tại đây.
Anh Alan I. Navarro, trưởng ban tổ chức nghi lễ, cho hay: “Vào dịp này có khoảng 22.000 người đến Cutud để chứng kiến nghi lễ có một không hai trên thế giới này. Đây là một nghi lễ bắt nguồn từ tục lệ làng xã. Ở đất nước tôn sùng Thiên Chúa giáo như chúng tôi, lễ đóng đinh tự nguyện được coi là một trong những biểu hiện thiêng liêng nhất của tinh thần mộ đạo và lòng thành kính Chúa”.
Được biết không chỉ có làng Cutud mà gần như hầu hết các nơi trên đất nước Philippines đều tái hiện cảnh Chúa bị hành hình trong ngày thứ sáu tuần thánh. Nhưng chỉ có ba làng ở tỉnh Pampanga là đóng đinh thật để tái hiện cuộc khổ hạnh của Chúa Jesus, trong đó có làng Cutud.
THẾ ANH (từ Pampanga, Philippines)
www.tuoitre.com.vn
Đọc thêm!
Trong hôm nay (10-4), để tỏ lòng thành kính trước Chúa, những người sùng đạo tự nguyện để người ta đóng đinh cơ thể mình treo lên thập giá nhằm tái hiện cảnh Chúa Jesus bị hành hình và tử nạn.
Dân làng Cutud tập luyện để chuẩn bị cho ngày lễ - Ảnh: Thế Anh
Cutud là một ngôi làng nhỏ thuộc thành phố San Fernando, cách thủ đô Manila 70km. Vào ngày 9-4-2009, những màn tập dượt cuối cùng để chuẩn bị cho “ngày thứ sáu tốt lành” trong tuần thánh đã kết thúc lúc 15g. Sự bình yên vốn có của một làng quê nghèo đã bị đảo lộn bởi hàng chục ngàn du khách và hàng trăm hãng thông tấn từ khắp nơi trên thế giới đổ về.
Đặc biệt, trong số những người tự nguyện đóng đinh năm nay có ông Ruben Enaje. Đây là lần thứ 23 người đàn ông 48 tuổi mưu sinh bằng nghề vẽ biển quảng cáo này “hiến thân” cho nghi lễ. Ruben Enaje cho biết đây là cách ông tỏ lòng biết ơn Chúa đã cứu ông thoát chết trong vụ rơi từ tòa nhà cao tầng xuống đất nhiều năm trước, lúc ông còn làm thợ xây.
Ông nói: “Trong ngày thứ sáu tuần thánh, chúng tôi không chỉ tái hiện cảnh Chúa bị hành hình như một sự mộ đạo đặc biệt, mà còn cầu mong cuộc sống của dân làng tốt đẹp hơn, thế giới trở nên an toàn và hòa bình hơn”. Chị Belen J. Cabiling, một người dân địa phương, vui vẻ nói: “Tôi rất tự hào về những người đàn ông ở quê tôi, họ là những anh hùng!”.
Mặc dù còn một ngày nữa mới đến ngày tưởng nhớ Chúa Jesus bị hành hình nhưng từ sáng sớm 9-4, hàng trăm thanh niên với chùm thanh tre trên tay đã đổ ra đường hò la, báo hiệu ngày lễ trọng đại ở làng Cutud đã đến. Họ đi thành từng đoàn, cởi trần, bịt kín mặt rồi dùng chùm thanh tre tự quất vào lưng mình đến khi chảy máu. Họ dừng lại ở mỗi góc đường, nằm xuống và để mọi người xung quanh dùng roi quất mạnh vào thân mình như một sự hi sinh vì Chúa. Nhiều người còn dùng cả những mảnh chai vỡ để đánh vào lưng. Với họ, máu chảy càng nhiều đồng nghĩa với lòng mộ đạo càng cao.
Ruben Enaje và những cây đinh sẽ đóng lên bàn tay ông trong “ngày thứ sáu tốt lành”. Đây là lần thứ 23 ông tự nguyện hiến thân cho Chúa - Ảnh: Thế Anh
Tục lệ này xuất hiện ở làng Cutud từ năm 1955, nhưng bị gián đoạn mãi đến năm 1962. Từ đó đến nay người dân địa phương vẫn tổ chức nghi lễ này đều đặn vào mỗi năm. Bốn giờ trước khi tiến hành lễ đóng đinh, đàn ông xếp thành hàng dài, chìa lưng cho roi tre và gậy bọc mảnh chai vỡ quần nát thịt da. Máu đỏ phun xuống mặt đường ướt đẫm.
Sau khi tái hiện 14 chặng đường thánh giá của Chúa, dân làng tụ tập tại một khu đất trống để chứng kiến cảnh đóng đinh của những người tự nguyện vào vai Chúa Jesus.
Được chọn vào vai Chúa Jesus trong “ngày thứ sáu tốt lành” là một đặc ân và vinh dự của công dân làng Cutud. Người ta dùng những cây đinh dài chừng 12cm rồi đóng vào bàn tay những người tự nguyện, sau đó treo họ trên thánh giá chừng 10 phút. Được biết năm nay có 12 người đăng ký tự nguyện đóng đinh, tất cả đều là người Philippines. Những năm trước từng có nhiều người đến từ các nước khác đăng ký đóng đinh tại đây.
Anh Alan I. Navarro, trưởng ban tổ chức nghi lễ, cho hay: “Vào dịp này có khoảng 22.000 người đến Cutud để chứng kiến nghi lễ có một không hai trên thế giới này. Đây là một nghi lễ bắt nguồn từ tục lệ làng xã. Ở đất nước tôn sùng Thiên Chúa giáo như chúng tôi, lễ đóng đinh tự nguyện được coi là một trong những biểu hiện thiêng liêng nhất của tinh thần mộ đạo và lòng thành kính Chúa”.
Được biết không chỉ có làng Cutud mà gần như hầu hết các nơi trên đất nước Philippines đều tái hiện cảnh Chúa bị hành hình trong ngày thứ sáu tuần thánh. Nhưng chỉ có ba làng ở tỉnh Pampanga là đóng đinh thật để tái hiện cuộc khổ hạnh của Chúa Jesus, trong đó có làng Cutud.
THẾ ANH (từ Pampanga, Philippines)
www.tuoitre.com.vn
Đọc thêm!
Thứ Hai, 12 tháng 10, 2009
Và Chúa đã thấu lời cầu
Với binh hùng tuớng mạnh nhưng Argentina cũng phải nhờ đến may mắn mới chiến thắng được một tuyển Peru đã không còn động lực thi đấu.
Maradona rất tin vào Chúa trời dù không phải lần nào Chúa cũng nghe thấu lời cầu nguyện của ông. Có lúc, người ta đã gán cho ngài việc trao sự may mắn cho bàn tay của ông khi ông còn đứng trên sân bóng. 2 lần được biết đến nhiều nhất là cú ghi bàn vào lưới tuyển Anh ở World Cup 1986 và cú chặn bóng bằng tay ngay trước khung thành Argentina ở trận gặp Liên Xô tại World Cup 1990.
Hôm qua, Maradona không đứng trong sân bóng nhưng bên ngoài sân, ông không ngớt cầu nguyện. Và trong một tối mưa gió, Ngài đã gửi “Thánh” Palermo xuống cứu giúp ông. Trong cuộc họp báo sau trận đấu, Maradona đã tôn tiền đạo Palermo lên làm Thánh.
Quả thật bàn thắng của Palermo có một điều gì đó mang yếu tố siêu nhiên. Nó được thực hiện ở phút 93. Cú sút cầu may của tiền vệ Insua đưa trái bóng lọt qua một rừng chân cầu thủ hai đội như phép tàng hình và xuất hiện ngay trước mặt Palermo giống món quà trời ban.
Chúa đã đến sân Monumental và thánh Palermo giúp chúng tôi có cơ hội dự World Cup
Palermo đã ghi 200 bàn thắng trong giải VĐQG Argentina. Rất nhiều trong số đó ngoạn mục, điển hình như cú đánh đầu vào lưới CLB Velez Sarsfield từ khoảng cách 40m tuần trước. Nhưng không có bàn thắng nào quan trọng như bàn thắng này dù nó chẳng có yếu tố ngoạn mục chút nào.Bàn thắng đó không chỉ giải thoát Maradona mà còn giải phóng cho đôi chân bị tù đày trong suốt 10 năm qua của Palermo, kể từ khi anh sút hỏng 3 quả phạt đền trong trận gặp Colombia tại giải Copa America năm 1999. Bàn thắng đó biến cơn mưa trên sân Monumental thành cơn mưa của niềm vui. Nếu không có nó thì ngày mưa gió này sẽ trở thành ngày đen tối trong lịch sử bóng đá Argentina.
Argentina đã bắt đầu trận đấu đầy căng thẳng như cách họ kết thúc trận đấu. Messi không tỏa sáng, Higuain bỏ lỡ vài cơ hội, Aimar phải sang hiệp 2 mới bắt nhịp với đội bóng anh vắng mặt quá lâu...
Higuain mở tỷ số cho Argentina sau cú chọc khe của Aimar đầu hiệp 2 song người Argentina như luôn ngồi trên ghế điện khi Peru liên tục dồn ép và tạo ra hàng tá cơ hội. Và chiếc ghế điện đó được đóng cầu dao vào phút 90 khi Rengifo đánh đầu ghi bàn cho Peru trước khi Đấng sáng tạo giơ bàn tay ra can thiệp ở phút 93.
Argentina tạm vươn lên vị trí thứ 4, trên các đối thủ cạnh tranh Uruguay và Ecuador. Trận cuối, thắng Uruguay trên sân khách là họ lấy vé chính thức đến Nam Phi. Nếu hòa thì họ cần nhờ Chile của HLV Bielsa (cựu HLV tuyển Argentina) trợ giúp khi Chile tiếp Ecuador trên sân nhà.
Chính Phong
http://www.thanhnien.com.vn/thethao/Pages/200942/20091012100444.aspx
Đọc thêm!
Maradona rất tin vào Chúa trời dù không phải lần nào Chúa cũng nghe thấu lời cầu nguyện của ông. Có lúc, người ta đã gán cho ngài việc trao sự may mắn cho bàn tay của ông khi ông còn đứng trên sân bóng. 2 lần được biết đến nhiều nhất là cú ghi bàn vào lưới tuyển Anh ở World Cup 1986 và cú chặn bóng bằng tay ngay trước khung thành Argentina ở trận gặp Liên Xô tại World Cup 1990.
Hôm qua, Maradona không đứng trong sân bóng nhưng bên ngoài sân, ông không ngớt cầu nguyện. Và trong một tối mưa gió, Ngài đã gửi “Thánh” Palermo xuống cứu giúp ông. Trong cuộc họp báo sau trận đấu, Maradona đã tôn tiền đạo Palermo lên làm Thánh.
Quả thật bàn thắng của Palermo có một điều gì đó mang yếu tố siêu nhiên. Nó được thực hiện ở phút 93. Cú sút cầu may của tiền vệ Insua đưa trái bóng lọt qua một rừng chân cầu thủ hai đội như phép tàng hình và xuất hiện ngay trước mặt Palermo giống món quà trời ban.
Chúa đã đến sân Monumental và thánh Palermo giúp chúng tôi có cơ hội dự World Cup
Palermo đã ghi 200 bàn thắng trong giải VĐQG Argentina. Rất nhiều trong số đó ngoạn mục, điển hình như cú đánh đầu vào lưới CLB Velez Sarsfield từ khoảng cách 40m tuần trước. Nhưng không có bàn thắng nào quan trọng như bàn thắng này dù nó chẳng có yếu tố ngoạn mục chút nào.Bàn thắng đó không chỉ giải thoát Maradona mà còn giải phóng cho đôi chân bị tù đày trong suốt 10 năm qua của Palermo, kể từ khi anh sút hỏng 3 quả phạt đền trong trận gặp Colombia tại giải Copa America năm 1999. Bàn thắng đó biến cơn mưa trên sân Monumental thành cơn mưa của niềm vui. Nếu không có nó thì ngày mưa gió này sẽ trở thành ngày đen tối trong lịch sử bóng đá Argentina.
Argentina đã bắt đầu trận đấu đầy căng thẳng như cách họ kết thúc trận đấu. Messi không tỏa sáng, Higuain bỏ lỡ vài cơ hội, Aimar phải sang hiệp 2 mới bắt nhịp với đội bóng anh vắng mặt quá lâu...
Higuain mở tỷ số cho Argentina sau cú chọc khe của Aimar đầu hiệp 2 song người Argentina như luôn ngồi trên ghế điện khi Peru liên tục dồn ép và tạo ra hàng tá cơ hội. Và chiếc ghế điện đó được đóng cầu dao vào phút 90 khi Rengifo đánh đầu ghi bàn cho Peru trước khi Đấng sáng tạo giơ bàn tay ra can thiệp ở phút 93.
Argentina tạm vươn lên vị trí thứ 4, trên các đối thủ cạnh tranh Uruguay và Ecuador. Trận cuối, thắng Uruguay trên sân khách là họ lấy vé chính thức đến Nam Phi. Nếu hòa thì họ cần nhờ Chile của HLV Bielsa (cựu HLV tuyển Argentina) trợ giúp khi Chile tiếp Ecuador trên sân nhà.
Chính Phong
http://www.thanhnien.com.vn/thethao/Pages/200942/20091012100444.aspx
Đọc thêm!
Thứ Năm, 27 tháng 8, 2009
Trường hợp Bác sĩ George Rodonaia
Bác sĩ George Rodonaia là 1 bác sĩ đồng thời là 1 tiến sĩ trong ngành thần kinh học & cũng là 1 tiến sĩ tâm lý học tôn giáo. Gần đây nhất, ông đã có 1 phát biểu quan trọng ở Mỹ trong cuốn sách “Tôn giáo mới của nhân loại”. Trước khi nhập cư vào Mỹ từ Liên Xô cũ vào năm 1989, ông là 1 chuyên gia nghiên cứu về thần kinh tại Đại học Moscow.
Bác sĩ Rodonaia đã trải qua 1 trong những “kinh nghiệm cận tử” đặc biệt nhất được ghi nhận từ trước đến giờ. Được phát hiện chết ngay lập tức sau 1 vụ tai nạn ô tô vào năm 1976, ông được đưa vào nhà xác và ở đó trong 3 ngày. Ông ta vẫn không hồi sinh cho tới khi bác sí tiến hành giải phẩu phần bụng như 1 phần của công tác khám nghiệm tử thi.
Một điểm đáng chú ý khác của trường hợp tiến sĩ Rodonaia là ông đã thay đổi hoàn toàn sau “kinh nghiệm cận tử”. Trước khi trải qua “kinh nghiệm cận tử”, ông là 1 nhà thần kinh học. Ông cũng được biết đến như là 1 người theo chủ nghĩa vô thần. Vậy mà sau sự trải nghiệm, ông đã buộc mình phải dồn sức cho việc học bộ môn tâm lý học tôn giáo. Và sau đó ông trở thành 1 tín đồ trong nhà thờ Eastern Orthodox. Hôm nay, ông là mục sư tại nhà thờ the First united Methodist ở Nederland, bang Texas, Hoa Kỳ.
Điều đầu tiên tôi nhớ nhất trong “kinh nghiệm cận tử” của mình là tôi thấy mình đang ở trong 1 không gian hoàn toàn tối tăm không ánh sáng. Tôi không thấy đau đớn gì về thể xác; Tôi vẫn cảm nhận được sự tồn tại của chính mình như là anh chàng George khi nào, và bóng tối vây quanh tôi, mọi thứ thật sự tối tăm hơn bao giờ hết, tối đen như mực. Những thứ đó làm tôi cảm thấy sợ. Tôi chưa chuẩn bị đối mặt với những điều như vầy bao giờ. Tôi cảm thấy sốc khi biết mình vẫn còn tồn tại nhưng không biết mình đang ở đâu. Một ý nghĩ chợt lóe lên là: “Làm sao tôi có thể tồn tại khi tôi không tồn tại?” Điều đó thật sự làm tôi kinh hãi.
Một cách chậm chạp, tôi lấy lại bình tĩnh và bắt đầu nhớ lại những gì đã diễn ra. Nhưng vẫn không có bất cứ điều gì làm tôi cảm thấy dễ chịu & thoải mái. “Tại sao tôi lại ở trong cái nơi tối tăm thế này?” “Tôi phải làm gì?” Và tôi nhớ lại 1 câu nói của Descartes: “Tôi tư duy vì vậy tôi tồn tại”. Và điều đó đã làm tôi cảm thấy nhẹ nhõm hơn rất nhiều và chắc chắn rằng mình vẫn còn sống mặc dù là ở 1 chiều không gian khác. Sau đó tôi lại có 1 ý nghĩ: “Nếu tôi tồn tại thì sao tôi lại không ở 1 nơi tốt đẹp?” Đó là những gì xung quanh tôi lúc đó. “Tôi là George và tôi đang ở trong 1 nơi tăm tối nhưng tôi biết tôi đang ở đâu. Tôi đang ở nơi tôi ở. Tôi không thể ở nơi tồi tệ thế này.
Sau đó tôi nghĩ:”Làm sao tìm thấy sự tốt đẹp trong bóng tối?” À, điều tốt đẹp là ánh sáng. Bỗng nhiên xung quanh tôi tràn ngập ánh sáng trắng, rất sáng đẹp, và mạnh mẽ như ánh sáng đèn flash của máy chụp ảnh nhưng không chói mắt. Xung quanh vẫn tràn ngập ánh sáng, tôi nhận ra một phần ánh sáng làm tôi đau đớn. Tôi không thể nhìn trực tiếp vào nó. Nhưng 1 cách từ từ, tôi bắt đầu cảm thấy an toàn, ấm áp và mọi thứ đột nhiên trở nên tốt đẹp.
Điều diễn ra sau đó là tôi thấy rất nhiều phân tử, nguyên tử, proton, nơtron bay khắp nơi & cả ngay xung quanh mình. Nói 1 cách khác, chúng hoàn toàn hỗn lọan, vậy mà nó đem lại cho tôi một sự phấn khích rằng sự hỗn lọan này có cái ổn định riêng của nó. Cái trật tự này rất đẹp và hợp thành 1 khối thống nhất, và làm tôi phấn khích kinh khủng. Tôi đã nhìn thấy 1 thực thể bao trùm nhiều dạng sự sống khác nhau và thế giới tự nhiên hiện ra trước mắt tôi. Mọi ý thức lo âu về thể xác của mình hầu như tan biến trong tôi vào thời điểm này vì rõ ràng tôi chẳng cần tới nó nữa, một sự cản trở & hạn chế thật sự.
Mọi thứ trong cả quá trình trải nghiệm đều hợp nhất lại với nhau. Do đó thật khó mà diễn tả trình tự trước sau của tất cả sự kiện diễn ra. Thời gian hoàn toàn lắng đọng & không có ý nghĩa; quá khứ, hiện tại & tương lai đều kết hợp với nhau và diễn ra trước mắt tôi trong 1 khối thống nhất không có khái niệm về thời gian.
Trong 1 lúc nào đó, tôi đã trải qua “1 sự ôn lại tòan bộ những gì đã diễn ra trong quãng đời sống trước khi chết” và tôi thấy tất cả từ đầu đến cuối trong cùng 1 lúc. Tôi cảm nhận là mình tham gia vào đó như lúc đang còn sống, giống 1 vở kịch với hình ảnh 3 chiều của đời sống trước khi chết – nhưng không có khái niệm về thời gian; không quá khứ, hiện tại hay tương lai, chỉ là bây giờ với đời sống thực. Nó không theo trình tự bắt đầu từ lúc sinh cho đến lúc làm việc ở Đại học Moscow. Nó hiện ra tất cả đồng thời cùng 1 lúc. Và tôi đã ở đó. Đó là cuộc sống đã qua của tôi. Tôi không cảm nhận bất cứ cảm giác tội lỗi hay hối tiếc về những gì mình đã làm. Tôi không có 1 cảm giác nào hay bất cứ thứ gì, dù chỉ là 1, về những sai lầm, tội lỗi hay những gì đã đạt được. Tất cả chỉ là cảm giác rằng đời sống đó là của tôi và nó là như vậy. Tôi cảm thấy hài lòng và chấp nhận điều đó.
Trong lúc đó, ánh sáng đó truyền cho tôi cảm giác của sự thanh bình và hoan lạc. Nó thật tốt đẹp. Tôi cảm thấy thật hạnh phúc khi ở trong ánh sáng đó. Và tôi hiểu ánh sáng đó là gì. Tôi hiểu được rằng tất cả những định luật vật lý thông thường đều vô nghĩa với khối thống nhất bao trùm này. Tôi cũng đã hiểu được rằng lỗ đen vũ trụ chỉ là 1 phần khác của vô cực, của tuyệt đối hay nói 1 cách khác là của ánh sáng tràn ngập quanh tôi. Tôi hiểu thực thể này ở khắp mọi nơi. Đó không phải đơn giản là đời sống trên mặt đất mà là chân như. Mọi thứ không chỉ kết nối với nhau mà còn hợp nhất thành một. Vì thế tôi cảm nhận mình là 1 phần của ánh sáng đó, cảm giác đó đúng với tôi và toàn vũ trụ.
Và tôi đã ở đó với tràn ngập những điều tốt đẹp và những trải nghiệm tuyệt vời trong khi 1 người nào đó đang mổ bụng cái xác tôi. Bạn có thể tưởng tượng nổi không? Tôi đã bị đem vào nhà xác. Tôi đã được cho là đã chết và bỏ trong nhà xác 3 ngày liền. Một cuộc khám nghiệm tử thi đã được tiến hành. Khi họ bắt đầu mổ bụng tôi, tôi cảm giác như có 1 lực rất mạnh nào đó lôi cổ tôi và nhấn tôi xuống. Cái lực đó rất mạnh và tôi mở mắt kèm theo cảm giác đau đớn kinh khủng. Cơ thể tôi rất lạnh và tôi bắt đầu run rẩy. Những người tham gia khám nghiệm ngay lập tức dừng lại và đưa tôi vào bệnh viện nơi mà tôi phải nằm điều trị trong 9 tháng liên tục với máy trợ thở.
Từ từ rồi tôi cũng đã hồi phục. Nhưng tôi chẳng bao giờ được trải qua những điều như vậy 1 lần nữa, bởi vì điều tôi muốn làm trong suốt quãng đời còn lại là trau dồi thêm kiến thức. Điều mong mỏi này đã khiến cho tôi tham gia học tập tai Đại học Georgia, nơi tôi đã lấy được bằng tiến sĩ thứ 2 trong lĩnh vực tâm lý học tôn giáo. Sau đó tôi trở thành tín đồ của nhà thờ Eastern Orthodox. Và vào năm 1989, chúng tôi đến Mỹ và tôi trở thành mục sư cho nhà thờ nhà thờ the First united Methodist ở Nederland bang Texas, Hoa Kỳ.
Bất cứ ai có những trải nghiệm như vậy với Thượng Đế hoặc cảm nhận được cảm giác kết nối với chân như, đều biết rằng chỉ có 1 việc phải làm cho tốt là yêu thương, yêu thương tự nhiên, yêu thương mọi người, yêu thương loài vật, yêu thương tạo hóa. Phục vụ Thượng Đế với tình yêu chân thành rộng mở và cảm thông. Đó là ý nghĩa của việc chúng ta tồn tại trên cõi đời này.
Rất nhiều người quay lưng với những người có được trải nghiệm đối với “kinh nghiệm cận tử” bởi vì họ cảm giác rằng chúng ta đã có câu trả lời. Nhưng tôi cho rằng đó không đúng, ít nhất là không hoàn toàn. Không ai trong chúng ta có thể tiếp cận hoặc hiểu rõ hoàn toàn cái sự thật vĩ đại cho tới khi nào chúng ta hòa nhập hoàn toàn với vô cùng, với chân như khi chúng ta chết thật sự. Nhưng trong 1 lúc nào đó, đó là 1 điều rất tự nhiên khi chúng ta tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi về “kinh nghiệm cận tử” và vĩnh hằng.
http://www.nderf.org/Vietnamese/george_rodonaia_nde.htm
Đọc thêm!
Bác sĩ Rodonaia đã trải qua 1 trong những “kinh nghiệm cận tử” đặc biệt nhất được ghi nhận từ trước đến giờ. Được phát hiện chết ngay lập tức sau 1 vụ tai nạn ô tô vào năm 1976, ông được đưa vào nhà xác và ở đó trong 3 ngày. Ông ta vẫn không hồi sinh cho tới khi bác sí tiến hành giải phẩu phần bụng như 1 phần của công tác khám nghiệm tử thi.
Một điểm đáng chú ý khác của trường hợp tiến sĩ Rodonaia là ông đã thay đổi hoàn toàn sau “kinh nghiệm cận tử”. Trước khi trải qua “kinh nghiệm cận tử”, ông là 1 nhà thần kinh học. Ông cũng được biết đến như là 1 người theo chủ nghĩa vô thần. Vậy mà sau sự trải nghiệm, ông đã buộc mình phải dồn sức cho việc học bộ môn tâm lý học tôn giáo. Và sau đó ông trở thành 1 tín đồ trong nhà thờ Eastern Orthodox. Hôm nay, ông là mục sư tại nhà thờ the First united Methodist ở Nederland, bang Texas, Hoa Kỳ.
Điều đầu tiên tôi nhớ nhất trong “kinh nghiệm cận tử” của mình là tôi thấy mình đang ở trong 1 không gian hoàn toàn tối tăm không ánh sáng. Tôi không thấy đau đớn gì về thể xác; Tôi vẫn cảm nhận được sự tồn tại của chính mình như là anh chàng George khi nào, và bóng tối vây quanh tôi, mọi thứ thật sự tối tăm hơn bao giờ hết, tối đen như mực. Những thứ đó làm tôi cảm thấy sợ. Tôi chưa chuẩn bị đối mặt với những điều như vầy bao giờ. Tôi cảm thấy sốc khi biết mình vẫn còn tồn tại nhưng không biết mình đang ở đâu. Một ý nghĩ chợt lóe lên là: “Làm sao tôi có thể tồn tại khi tôi không tồn tại?” Điều đó thật sự làm tôi kinh hãi.
Một cách chậm chạp, tôi lấy lại bình tĩnh và bắt đầu nhớ lại những gì đã diễn ra. Nhưng vẫn không có bất cứ điều gì làm tôi cảm thấy dễ chịu & thoải mái. “Tại sao tôi lại ở trong cái nơi tối tăm thế này?” “Tôi phải làm gì?” Và tôi nhớ lại 1 câu nói của Descartes: “Tôi tư duy vì vậy tôi tồn tại”. Và điều đó đã làm tôi cảm thấy nhẹ nhõm hơn rất nhiều và chắc chắn rằng mình vẫn còn sống mặc dù là ở 1 chiều không gian khác. Sau đó tôi lại có 1 ý nghĩ: “Nếu tôi tồn tại thì sao tôi lại không ở 1 nơi tốt đẹp?” Đó là những gì xung quanh tôi lúc đó. “Tôi là George và tôi đang ở trong 1 nơi tăm tối nhưng tôi biết tôi đang ở đâu. Tôi đang ở nơi tôi ở. Tôi không thể ở nơi tồi tệ thế này.
Sau đó tôi nghĩ:”Làm sao tìm thấy sự tốt đẹp trong bóng tối?” À, điều tốt đẹp là ánh sáng. Bỗng nhiên xung quanh tôi tràn ngập ánh sáng trắng, rất sáng đẹp, và mạnh mẽ như ánh sáng đèn flash của máy chụp ảnh nhưng không chói mắt. Xung quanh vẫn tràn ngập ánh sáng, tôi nhận ra một phần ánh sáng làm tôi đau đớn. Tôi không thể nhìn trực tiếp vào nó. Nhưng 1 cách từ từ, tôi bắt đầu cảm thấy an toàn, ấm áp và mọi thứ đột nhiên trở nên tốt đẹp.
Điều diễn ra sau đó là tôi thấy rất nhiều phân tử, nguyên tử, proton, nơtron bay khắp nơi & cả ngay xung quanh mình. Nói 1 cách khác, chúng hoàn toàn hỗn lọan, vậy mà nó đem lại cho tôi một sự phấn khích rằng sự hỗn lọan này có cái ổn định riêng của nó. Cái trật tự này rất đẹp và hợp thành 1 khối thống nhất, và làm tôi phấn khích kinh khủng. Tôi đã nhìn thấy 1 thực thể bao trùm nhiều dạng sự sống khác nhau và thế giới tự nhiên hiện ra trước mắt tôi. Mọi ý thức lo âu về thể xác của mình hầu như tan biến trong tôi vào thời điểm này vì rõ ràng tôi chẳng cần tới nó nữa, một sự cản trở & hạn chế thật sự.
Mọi thứ trong cả quá trình trải nghiệm đều hợp nhất lại với nhau. Do đó thật khó mà diễn tả trình tự trước sau của tất cả sự kiện diễn ra. Thời gian hoàn toàn lắng đọng & không có ý nghĩa; quá khứ, hiện tại & tương lai đều kết hợp với nhau và diễn ra trước mắt tôi trong 1 khối thống nhất không có khái niệm về thời gian.
Trong 1 lúc nào đó, tôi đã trải qua “1 sự ôn lại tòan bộ những gì đã diễn ra trong quãng đời sống trước khi chết” và tôi thấy tất cả từ đầu đến cuối trong cùng 1 lúc. Tôi cảm nhận là mình tham gia vào đó như lúc đang còn sống, giống 1 vở kịch với hình ảnh 3 chiều của đời sống trước khi chết – nhưng không có khái niệm về thời gian; không quá khứ, hiện tại hay tương lai, chỉ là bây giờ với đời sống thực. Nó không theo trình tự bắt đầu từ lúc sinh cho đến lúc làm việc ở Đại học Moscow. Nó hiện ra tất cả đồng thời cùng 1 lúc. Và tôi đã ở đó. Đó là cuộc sống đã qua của tôi. Tôi không cảm nhận bất cứ cảm giác tội lỗi hay hối tiếc về những gì mình đã làm. Tôi không có 1 cảm giác nào hay bất cứ thứ gì, dù chỉ là 1, về những sai lầm, tội lỗi hay những gì đã đạt được. Tất cả chỉ là cảm giác rằng đời sống đó là của tôi và nó là như vậy. Tôi cảm thấy hài lòng và chấp nhận điều đó.
Trong lúc đó, ánh sáng đó truyền cho tôi cảm giác của sự thanh bình và hoan lạc. Nó thật tốt đẹp. Tôi cảm thấy thật hạnh phúc khi ở trong ánh sáng đó. Và tôi hiểu ánh sáng đó là gì. Tôi hiểu được rằng tất cả những định luật vật lý thông thường đều vô nghĩa với khối thống nhất bao trùm này. Tôi cũng đã hiểu được rằng lỗ đen vũ trụ chỉ là 1 phần khác của vô cực, của tuyệt đối hay nói 1 cách khác là của ánh sáng tràn ngập quanh tôi. Tôi hiểu thực thể này ở khắp mọi nơi. Đó không phải đơn giản là đời sống trên mặt đất mà là chân như. Mọi thứ không chỉ kết nối với nhau mà còn hợp nhất thành một. Vì thế tôi cảm nhận mình là 1 phần của ánh sáng đó, cảm giác đó đúng với tôi và toàn vũ trụ.
Và tôi đã ở đó với tràn ngập những điều tốt đẹp và những trải nghiệm tuyệt vời trong khi 1 người nào đó đang mổ bụng cái xác tôi. Bạn có thể tưởng tượng nổi không? Tôi đã bị đem vào nhà xác. Tôi đã được cho là đã chết và bỏ trong nhà xác 3 ngày liền. Một cuộc khám nghiệm tử thi đã được tiến hành. Khi họ bắt đầu mổ bụng tôi, tôi cảm giác như có 1 lực rất mạnh nào đó lôi cổ tôi và nhấn tôi xuống. Cái lực đó rất mạnh và tôi mở mắt kèm theo cảm giác đau đớn kinh khủng. Cơ thể tôi rất lạnh và tôi bắt đầu run rẩy. Những người tham gia khám nghiệm ngay lập tức dừng lại và đưa tôi vào bệnh viện nơi mà tôi phải nằm điều trị trong 9 tháng liên tục với máy trợ thở.
Từ từ rồi tôi cũng đã hồi phục. Nhưng tôi chẳng bao giờ được trải qua những điều như vậy 1 lần nữa, bởi vì điều tôi muốn làm trong suốt quãng đời còn lại là trau dồi thêm kiến thức. Điều mong mỏi này đã khiến cho tôi tham gia học tập tai Đại học Georgia, nơi tôi đã lấy được bằng tiến sĩ thứ 2 trong lĩnh vực tâm lý học tôn giáo. Sau đó tôi trở thành tín đồ của nhà thờ Eastern Orthodox. Và vào năm 1989, chúng tôi đến Mỹ và tôi trở thành mục sư cho nhà thờ nhà thờ the First united Methodist ở Nederland bang Texas, Hoa Kỳ.
Bất cứ ai có những trải nghiệm như vậy với Thượng Đế hoặc cảm nhận được cảm giác kết nối với chân như, đều biết rằng chỉ có 1 việc phải làm cho tốt là yêu thương, yêu thương tự nhiên, yêu thương mọi người, yêu thương loài vật, yêu thương tạo hóa. Phục vụ Thượng Đế với tình yêu chân thành rộng mở và cảm thông. Đó là ý nghĩa của việc chúng ta tồn tại trên cõi đời này.
Rất nhiều người quay lưng với những người có được trải nghiệm đối với “kinh nghiệm cận tử” bởi vì họ cảm giác rằng chúng ta đã có câu trả lời. Nhưng tôi cho rằng đó không đúng, ít nhất là không hoàn toàn. Không ai trong chúng ta có thể tiếp cận hoặc hiểu rõ hoàn toàn cái sự thật vĩ đại cho tới khi nào chúng ta hòa nhập hoàn toàn với vô cùng, với chân như khi chúng ta chết thật sự. Nhưng trong 1 lúc nào đó, đó là 1 điều rất tự nhiên khi chúng ta tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi về “kinh nghiệm cận tử” và vĩnh hằng.
http://www.nderf.org/Vietnamese/george_rodonaia_nde.htm
Đọc thêm!
Thứ Năm, 13 tháng 8, 2009
Nhiều người tin cả thần linh và khoa học
Phần lớn người tham gia một cuộc khảo sát lớn thừa nhận họ tin thượng đế tồn tại, dù bản thân rất am hiểu thuyết tiến hóa của nhà khoa học vĩ đại Charles Darwin.

Ra đời cách đây 150 năm, tác phẩm "Nguồn gốc muôn loài" của Charles Darwin vẫn là đề tài gây tranh cãi. Ảnh: Wikispaces.
Hội đồng Anh tiến hành thăm dò ý kiến của hơn 10.000 người tại 10 quốc gia, trong đó có Anh. Kết quả cho thấy 54% tin vào thần linh dù họ biết rằng cuộc sống trên trái đất phát triển nhờ quá trình chọn lọc tự nhiên. Chỉ có 19% nói rằng họ không còn tin vào thánh thần sau khi biết học thuyết tiến hóa của nhà tự nhiên học vĩ đại Charles Darwin. Học thuyết này được trình bày trong tác phẩm Nguồn gốc muôn loài xuất bản cách đây 150 năm.
Thành phố London là nơi tỷ lệ người tin vào việc thượng đế tạo ra thế giới cao hơn hẳn so với phần còn lại của nước Anh. 23% người dân tại London phản đối thuyết tiến hóa, trong khi con số trung bình của cả xứ sở sương mù là 16%. Trong số hơn 10.000 người trả lời phỏng vấn, có tới 45% người trưởng thành nói rằng họ từng nghe về Charles Darwin nhưng hiểu rất ít về học thuyết của ông.
Tiến sĩ Fern Elsdon-Baker, giám đốc chương trình Darwin Now của Hội đồng Anh, nhận xét: "Cuộc khảo sát cho thấy, ngay cả ở những đô thị lớn của các nước phát triển, nhiều người dân vẫn mơ hồ về một trong những học thuyết cơ bản nhất của khoa học. Thành tựu của Charles Darwin hoàn toàn dựa trên những chứng cứ có thật. Học thuyết của ông là nền tảng của sinh học hiện đại. Nhưng đến tận ngày nay, người ta vẫn tiếp tục tranh cãi về các lý thuyết của ông".
Tuy nhiên, ông Elsdon-Baker khẳng định mục đích của cuộc khảo sát là tìm hiểu vai trò của khoa học trong đời sống xã hội ngày nay, chứ không phải hình ảnh của Chúa trời hay Charles Darwin trong suy nghĩ của người dân.
Minh Long (theo Telegraph)
http://vnexpress.net/GL/Khoa-hoc/2009/07/3BA10CA8/
Đọc thêm!

Ra đời cách đây 150 năm, tác phẩm "Nguồn gốc muôn loài" của Charles Darwin vẫn là đề tài gây tranh cãi. Ảnh: Wikispaces.
Hội đồng Anh tiến hành thăm dò ý kiến của hơn 10.000 người tại 10 quốc gia, trong đó có Anh. Kết quả cho thấy 54% tin vào thần linh dù họ biết rằng cuộc sống trên trái đất phát triển nhờ quá trình chọn lọc tự nhiên. Chỉ có 19% nói rằng họ không còn tin vào thánh thần sau khi biết học thuyết tiến hóa của nhà tự nhiên học vĩ đại Charles Darwin. Học thuyết này được trình bày trong tác phẩm Nguồn gốc muôn loài xuất bản cách đây 150 năm.
Thành phố London là nơi tỷ lệ người tin vào việc thượng đế tạo ra thế giới cao hơn hẳn so với phần còn lại của nước Anh. 23% người dân tại London phản đối thuyết tiến hóa, trong khi con số trung bình của cả xứ sở sương mù là 16%. Trong số hơn 10.000 người trả lời phỏng vấn, có tới 45% người trưởng thành nói rằng họ từng nghe về Charles Darwin nhưng hiểu rất ít về học thuyết của ông.
Tiến sĩ Fern Elsdon-Baker, giám đốc chương trình Darwin Now của Hội đồng Anh, nhận xét: "Cuộc khảo sát cho thấy, ngay cả ở những đô thị lớn của các nước phát triển, nhiều người dân vẫn mơ hồ về một trong những học thuyết cơ bản nhất của khoa học. Thành tựu của Charles Darwin hoàn toàn dựa trên những chứng cứ có thật. Học thuyết của ông là nền tảng của sinh học hiện đại. Nhưng đến tận ngày nay, người ta vẫn tiếp tục tranh cãi về các lý thuyết của ông".
Tuy nhiên, ông Elsdon-Baker khẳng định mục đích của cuộc khảo sát là tìm hiểu vai trò của khoa học trong đời sống xã hội ngày nay, chứ không phải hình ảnh của Chúa trời hay Charles Darwin trong suy nghĩ của người dân.
Minh Long (theo Telegraph)
http://vnexpress.net/GL/Khoa-hoc/2009/07/3BA10CA8/
Đọc thêm!
Thứ Ba, 4 tháng 8, 2009
Toàn văn bài phát biểu nhậm chức của Obama
Vào lúc khoảng 12h06 (giờ Washington) ngày 20/1, Barack Obama đã chính thức tuyên thệ nhậm chức Tổng thống thứ 44 của Mỹ, cam kết sẽ bắt đầu lại công việc chấn hưng đất nước. Dưới đây, VietNamNet xin giới thiệu toàn văn bài phát biểu tuyên thệ nhậm chức của ông chủ da màu đầu tiên trong lịch sử nước Mỹ.
Những người đồng bào của tôi,
Tôi đứng đây ngày hôm nay, nhỏ bé trước trọng trách phía trước chúng ta, biết ơn vì sự tín nhiệm các bạn đã trao tặng, lưu tâm tới những hy sinh của ông cha chúng ta. Tôi đã cảm ơn Tổng thống Bush vì sự cống hiến của ông cho đất nước của chúng ta cũng như sự hào phóng và hợp tác mà ông đã thể hiện trong suốt quá trình chuyển giao (quyền lực) này.
Tính tới thời điểm hiện tại, 44 người Mỹ đã đọc lời tuyên thệ nhậm chức. Các lời lẽ đã được xướng lên trong những đợt thủy triều dâng trào của sự thịnh vượng và mặt nước tĩnh lặng của hoà bình. Tuy nhiên, thường thì lời tuyên thệ nhậm chức được thực hiện trong lúc những đám mây quần tụ và các cơn bão điên cuồng. Vào những giây phút này, nước Mỹ đang tiến bước không chỉ bởi vì kĩ năng và tầm nhìn của những người cầm quyền cao nhất mà vì chúng ta, người dân, vẫn trung thành với các tư tưởng của các bậc tiền bối và tôn trọng các văn bản đã ban hành của chúng ta.
Mọi việc đã diễn ra như vậy. Và chúng sẽ phải như vậy trong thế hệ này của người dân Mỹ.
Hiện ai cũng hiểu rõ việc chúng ta đang ở giữa khủng hoảng. Đất nước chúng ta đang trong cuộc chiến chống một mạng lưới bạo lực và sự hận thù rộng lớn. Nền kinh tế của chúng ta đặc biệt bị suy yếu, một hậu quả của sự tham lam và vô trách nhiệm của một số đối tượng, nhưng cũng là thất bại của toàn thể chúng ta trong việc đưa ra những quyết định khó khăn và chuẩn bị cho đất nước bước vào một thời kỳ mới. Rất nhiều gia đình mất nhà ở; việc làm bị cắt giảm; các doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động. Chăm sóc y tế của chúng ta quá đắt đỏ; các trường học của chúng ta không đáp ứng được mong đợi của nhiều người và mỗi ngày lại xuất hiện thêm những bằng chứng cho thấy các cách thức sử dụng năng lượng của chúng ta đang tăng cường sức mạnh cho các kẻ thù của chúng ta và đe doạ hành tinh này.
Đây là những biểu hiện của khủng hoảng, theo các dữ liệu và con số tính toán. Thiếu tính toán nhưng không thiếu đào sâu suy nghĩ là sự đào bới niềm tin khắp mảnh đất của chúng ta - một nỗi sợ hãi dai dẳng rằng sự suy sụp của nước Mỹ là không thể tránh khỏi và rằng thế hệ tiếp theo sẽ phải hạ thấp các tầm ngắm của họ.
Hôm nay, tôi nói với các bạn rằng những thách thức mà chúng ta đang đối mặt là có thực. Chúng rất nghiêm trọng và rất nhiều. Chúng sẽ không dễ gì được giải quyết hoặc kéo dài trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên, nước Mỹ nên biết điều này - các thách thức đó sẽ được giải quyết.
Ngày hôm nay, chúng ta có mặt ở đây vì chúng ta đã chọn hy vọng thay vì sợ hãi, thống nhất các mục đích thay vì xung đột và bất hoà.
Ngày hôm nay, chúng ta tới đây để tuyên bố chấm dứt những lời than phiền vụn vặt và những lời cam kết giả dối, các lời buộc tội lẫn nhau và niềm tin rạn nứt và chấm dứt việc đời sống chính trị của chúng ta đã bị bóp nghẹt quá lâu rồi.
Chúng ta vẫn là một đất nước non trẻ, nhưng theo Kinh thánh, thời gian đã tới để loại bỏ những thứ ngây ngô. Thời gian đã tới để tái xác nhận một lần nữa tinh thần nhẫn nại của chúng ta; để lựa chọn cho chúng ta lịch sử tốt đẹp hơn; chuyển giao món quà quý giá đó, ý tưởng đáng khâm phục đó, vốn được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác: Lời cam kết của Chúa rằng tất cả đều bình đẳng, tất cả đều tự do và tất cả đều xứng đáng có cơ hội được theo đuổi tiêu chuẩn toàn diện của họ về hạnh phúc.
Trong khi tái khẳng định sự vĩ đại của đất nước chúng ta, chúng ta hiểu được rằng sự vĩ đại không bao giờ là cái có sẵn. Đó là thứ phải giành được. Cuộc hành trình của chúng ta chưa bao giờ là một trong những chuyến đi rút ngắn hay được định đoạt vì cái kém cỏi hơn. Đó không phải là con đường dành cho những người nhút nhát - cho những ai thích sự nhàn rỗi hơn công việc hay chỉ tìm kiếm niềm vui thích của sự giàu có và nổi tiếng. Nói đúng hơn, đó là con đường dành cho những người chấp nhận mạo hiểm, những người thực hiện, sáng tạo ra mọi thứ - một số người nổi danh nhưng đa phần họ là những người phụ nữ, nam giới vô danh trong công việc của mình, những người đã đưa chúng ta tiến bước trên con đường dài, gập ghềnh để tới sự thịnh vượng và tự do.
Đối với chúng ta, họ đã gói ghém những hành trang trải nghiệm ít ỏi của mình và vượt qua các đại dương để tìm kiếm một cuộc sống mới.
Đối với chúng ta, họ đã làm việc cặm cụi trong các công xưởng bóc lột công nhân tàn tệ và định cư ở phương Tây; chịu đựng đòn roi và cày những mảnh đất cằn cỗi.
Đối với chúng ta, họ đã chiến đấu và hy sinh; ở những nơi như Concord và Gettysburg; Normandy...
Thời gian và một lần nữa những người phụ nữ và nam giới này đã đấu tranh, hy sinh và làm việc cho tới khi tay họ chai lại để chúng ta có thể có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Họ đã nhận thấy nước Mỹ to lớn hơn một tập hợp của những tham vọng cá nhân của chúng ta; vĩ đại hơn tất cả những khác biệt về dòng dõi hay của cải hoặc bè phái.
Đây là cuộc hành trình mà chúng ta sẽ tiếp tục ngày hôm nay. Chúng ta vẫn là một cường quốc thịnh vượng và hùng mạnh nhất trên trái đất. Các công nhân của chúng ta không kém năng suất hơn khi cuộc khủng hoảng đã bắt đầu. Đầu óc chúng ta không kém sáng tạo hơn. Nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ của chúng ta không kém hơn tuần trước, tháng trước hay năm trước. Khả năng của chúng ta vẫn chưa bị suy giảm. Tuy nhiên, thời mà chúng ta vẫn khư khư ý kiến bảo vệ các lợi ích hẹp hòi và trì hoãn các quyết định khó khăn chắc hắn đã qua. Bắt đầu từ hôm nay, chúng ta phải vực dậy bản thân, cải thiện mình và bắt đầu lại công việc tái thiết nước Mỹ.
Ở bất cứ đâu mà chúng ta hướng tới sẽ có việc cần phải hoàn thành. Tình trạng kinh tế đòi hỏi hành động, táo bạo và mau lẹ. Và chúng ta phải hành động - không chỉ tạo ra các việc làm mới mà đề ra một cơ sở mới cho sự tăng trưởng. Chúng ta sẽ xây dựng các con đường, các cây cầu, mạng lưới điện và các tuyến dữ liệu mã hoá giúp ích cho nền thương mại của chúng ta và gắn kết chúng ta với nhau. Chúng ta sẽ khôi phục khoa học về đúng chỗ của nó cũng như tận dụng sự kỳ diệu của công nghệ để cải thiện chất lượng chăm sóc y tế và hạ giá thành dịch vụ này. Chúng ta sẽ khai thác mặt trời, gió và đất đai để tiếp nhiên liệu cho các xe hơi của chúng ta và vận hành các nhà máy. Và chúng ta sẽ cải tổ các trường phổ thông, cao đẳng và đại học của chúng ta nhằm đáp ứng những yêu cầu của một thời kỳ mới. Tất cả những điều này chúng ta có thể làm được. Tất cả những điều này chúng ta sẽ làm.
Hiện tại, có một số người đang hoài nghi về mức độ các tham vọng của chúng ta. Họ đề xuất rằng hệ thống của chúng ta sẽ không thể chống chịu được quá nhiều kế hoạch lớn. Khả năng ghi nhớ của họ thật hạn hẹn vì họ đã quên những gì mà đất nước này đã làm được; những gì mà những người phụ nữ và nam giới tự do có thể giành được khi khả năng sáng tạo được hoà hợp vì mục đích chung; và hoàn cảnh bắt buộc phải có dũng khí.
Điều mà những người hoài nghi không hiểu là đất đã chuyển dời dưới chân họ và rằng những luận điểm chính trị cũ rích từng huỷ hoại chúng ta suốt một thời gian dài không còn hiệu quả nữa. Câu hỏi chúng ta đặt ra ngày hôm nay không phải là liệu chính phủ của chúng ta quá lớn hay quá nhỏ mà là liệu nó có hoạt động hiệu quả , liệu nó có thể giúp đỡ các gia đình tìm được việc với thu nhập hợp lí, sự quan tâm mà họ có thể được hưởng và sự nghỉ ngơi đáng đề cao. Nếu câu trả lời là có, thì chúng ta dự định tiến bước. Nếu câu trả lời là không thì mọi chương trình sẽ chấm dứt. Và những ai trong chúng ta, những người nắm quyền quản lý các đồng đô la của công chúng sẽ phải chịu trách nhiệm - chi tiêu khôn ngoan, thay đổi những thói quen xấu và làm công việc của mình trong sự minh bạch - bởi vì chỉ khi đó chúng ta mới có thể khôi phục được sự tin tưởng thiết yếu giữa người dân và chính phủ của họ.
Câu hỏi phía trước chúng ta hiện nay cũng không phải là: liệu thị trường là một lực lượng vĩnh viễn hay tạm thời. Sức mạnh tạo ra của cải và phát triển sự tự do của nó là không thể sánh kịp nhưng cuộc khủng hoảng đã gợi nhắc chúng ta rằng không có một cái nhìn thận trọng thì thị trường có thể vọt ra ngoài tầm kiểm soát - và rằng một đất nước không thể thịnh vượng dài lâu khi họ chỉ chú trọng đến những thuận lợi. Sự thành công của nền kinh tế chúng ta luôn luôn không những phụ thuộc vào quy mô tổng sản phẩm quốc nội (GDP) mà còn cả phạm vi của sự thịnh vượng; vào khả năng mở rộng cơ hội tới mọi con người quyết tâm - không nằm ngoài lòng nhân hậu mà bởi vì đó là con đường chắc chắn nhất hướng tới sự tốt đẹp chung cho tất cả chúng ta.
Vì lợi ích chung, chúng ta phản đối việc đánh đổi việc giữ gìn sự an toàn với lý tưởng của chúng ta. Ông cha ta đã đối mặt với khó khăn vất vả và hy sinh để thảo nên và giữ gìn những quy định về quyền con người, đã có những chương sử viết bằng máu của biết bao thế hệ. Những lý tưởng đó vẫn soi sáng thế giới hôm nay, và chúng ta không hy sinh chúng. Và xin gửi lời tới nhân dân và chính phủ các nước đang dõi xem buổi lễ hôm nay, từ những thủ đô tráng lệ nhất cho tới những thôn làng nhỏ nhất như nơi cha tôi đã sinh ra, rằng xin hãy biết nước Mỹ là bạn của mỗi quốc gia, mỗi người đàn ông, đàn bà, trẻ thơ đang tìm kiếm hoà bình và danh dự. Và một lần nữa, chúng ta đã sẵn sàng đi đầu trong sự nghiệp chung đó.
Hãy nhớ rằng các thế hệ gần đây đã đối mặt với phát xít...không chỉ bằng tên lửa và xe tăng, mà bằng cả sự đoàn kết keo sơn và bằng những lý lẽ chắc chắn, vững vàng. Những thế hệ tiền bối đó đã hiểu rằng, chúng ta không thể chỉ dùng sức mạnh để bảo vệ mình, hay tự cho phép mình làm như vậy. Thay vào đó, họ đã hiểu rằng sức mạnh của chúng ta phát sinh từ việc sử dụng hợp lý sức mạnh sẵn có một cách phù hợp nhất; an ninh của chúng ta có được từ chính nghĩa, chẳng hạn, từ sự khiêm nhường và kiềm chế thực sự.
Chúng ta là người gìn giữ những huyền thoại đó. Với những nguyên tắc này làm kim chỉ nam, một lần nữa, chúng ta có thể có được sự hợp tác và hiểu biết lẫn nhau tốt hơn từ các quốc gia khác nhau, một khi phải đối mặt với những nguy cơ lớn hơn trong tương lai. Chúng ta sẽ chuyển giao Iraq một cách có trách nhiệm cho nhân dân Iraq, và củng cố nền hoà bình ở Afghanistan.
Xin nói với cả các bạn xưa lẫn những kẻ thù cũ, rằng chúng tôi sẽ phải làm việc không mệt mỏi để có thể giảm thiểu các nguy cơ hạt nhân và đẩy lùi bóng ma của việc ấm lên toàn cầu. Chúng tôi sẽ không xin lỗi về cách sống của mình, cũng như không do dự trong việc bảo vệ cho mình, và với những kẻ muốn thực hiện mưu đồ khủng bổ và giết hại dân thường vô tội, xin cảnh báo rằng tinh thần của chúng tôi giờ thậm chí còn mạnh mẽ hơn và không thể bị phá vỡ, các người sẽ không thể tồn tại lâu và chúng tôi sẽ đánh bại các người.
Và chúng ta hiểu rõ di sản của mình là sức mạnh lớn chứ không phải là điểm yếu. Chúng ta là một đất nước của người Thiên Chúa Giáo cũng như Hồi Giáo, của người Do Thái cũng như người Hindus — và của người không theo đạo. Chúng ta được định hình từ mọi thứ ngôn ngữ và văn hoá, vẽ từ những nét khác nhau từ khắp trái đất này; và vì chúng ta cũng đã nếm trải vị đắng của nội chiến đau thương, và cũng đã nổi lên từ đêm đen đó bằng sức mạnh của tình đoàn kết, chúng ta không thể không tin rằng, những định kiến xưa cũ rồi sẽ biến mất hoàn toàn; những khoảng cách về dòng giống sẽ được giải quyết hoàn toàn; và khi đó thế giới sẽ trở nên gần gũi hơn, nhân quyền của chúng ta sẽ tự sáng lên; và Mỹ phải đóng vai trò thúc đẩy một kỷ nguyên mới của hoà bình.
Và xin gửi lời tới thế giới Hồi Giáo rằng, chúng tôi đang tìm kiếm một hướng đi mới tới phía trước, dựa trên lợi ích chung và sự tôn trọng lẫn nhau. Xin nói với những nhà lãnh đạo trên trái đất đang kiếm cách gây hiềm khích, hoặc đang đổ lỗi những yếu kém của mình là do phương Tây gây ra, xin hãy biết rằng nhân dân của các vị sẽ phán xét các vị dựa trên những gì các vị đang dựng xây chứ không phải đang phá huỷ. Xin nói với những ai đang leo lên quyền lực bằng con đường tham nhũng và trấn áp sự bất đồng chính kiến, rằng các vị đang đi sai con đường lịch sử, song chúng tôi sẽ dang tay nếu các vị tự giải phóng cho mình đầu tiên.
Và xin gửi lời tới nhân dân các nước nghèo, rằng chúng tôi cam kết sẽ đứng cùng các bạn để giúp mùa màng các bạn bội thu, để khơi thông những dòng nước mát lành, để nuôi dưỡng những cơ thể đang héo hon và để bồi đắp tinh thần cho những con người đang khao khát nhận thức. Và xin nói với những quốc gia giống quốc gia chúng tôi, những quốc gia đang được hưởng thụ khá nhiều, rằng đã đến lúc chúng ta không nên để cho những người dân khác phải sống trong chịu đựng dù ở ngoài biên giới chúng ta, và đã đến lúc chúng ta không thể tiêu thụ tài nguyên của thế giới mà không để ý tới những hậu quả của nó với xung quanh. Để có một thế giới đổi thay, chúng ta phải thay đổi cùng nó.
Trong khi chúng ta đang xem xét cho đoạn đường phía trước, hãy dành những tình cảm biết ơn và kính trọng cho những người Mỹ dũng cảm mà vào giờ phút này đây, đang bồng súng đi tuần trên cát nóng sa mạc hay trên những ngọn núi cao ngoài xa. Họ có nhiều điều để nói với chúng ta hôm nay, hay những người đã nằm xuống trong tiếng nguyện cầu ở Arlington nhiều thế hệ nay. Chúng ta tôn vinh họ không chỉ vì họ là những người gác canh cho tự do của chúng ta, mà còn vì họ là biểu trưng cho tinh thần phục vụ nhân dân, cho sự sẵn sàng cống hiến vì một mục tiêu cao cả hơn cả lo cho bản thân mình. Và điều đó, ngay trong lúc này đây - thời khắc quyết định một thế hệ mới – đó chính là tinh thần mà chúng ta thừa hưởng.
Bất cứ những gì chính phủ có thể làm và buộc phải làm, nhất thiết phải trung thành và kiên định với nhân dân, nền tảng của đất nước này. Lòng tốt sẽ được ghi nhận khi cứu giúp người lạ khi có một con đê bị vỡ. Lòng vị tha sẽ được ghi nhận khi những người công nhân thà giảm giờ làm của mình còn hơn nhìn thấy đồng nghiệp phải mất việc trong những thời khắc khó khăn nhất. Lòng dũng cảm sẽ được ghi nhận khi ngwời lính cứu hoả tìm đường leo lên cầu thang dày đặc khói hay thậm chí chỉ là việc bố mẹ nuôi dưỡng con cái mình. Những đức tính đó tạo nên số phận của chúng ta.
Thách thức của chúng ta có thể sẽ phát sinh mới lạ. Công cụ đi kèm với những thách thức đó mà chúng ta phải đối mặt có thể cũng mới lạ. Song với những giá trị đã giúp tạo nên thành công của chúng ta – siêng năng, trung thực, dũng cảm, fair play, khoan dung, quan tâm chia sẻ, trung thành và ái quốc – thì những thách thức mới lạ ấy rồi cũng sẽ trở thành quá khứ. Những thách thức là có thực. Nó âm thầm xuyên suốt lịch sử của chúng ta. Đòi hỏi của quá khứ là phải tìm ra sự thật. Đòi hỏi của chúng ta ngày nay là một kỷ nguyên mới với đầy đủ trách nhiệm - một sự công nhận, đối với mọi người Mỹ, rằng chúng ta phải có trách nhiệm với chính bản thân mình, với đất nước và với thế giới, những trách nhiệm mà chúng ta không thể nhận bừa song lại phải đón lấy nó một cách vui vẻ, với lập trường vững chắc rằng không có gì thoả mãn tinh thần hơn, định nghĩa được tính cách chúng ta hơn là xả thân vì những trọng trách như vậy.
Thách thức đó là cái giá của những cam kết về quyền công dân.
Đó là khởi nguồn của niềm tin của chúng ta - niềm tin tưởng rằng Chúa Trời đã gọi tên chúng ta để kiến tạo nên vận mệnh chưa định sẵn.
Đây là ý nghĩa của tự do và hệ tư tưởng của chúng ta, là lý do mà mỗi người đàn ông, đàn bà, trẻ thơ của mọi sắc tộc có thể cùng tham gia hội họp cùng nhau tại địa điểm tráng lệ này, là lý do mà một người đàn ông mà nếu chưa đầy 60 năm trước không thể phục vụ ở một nhà hàng địa phương thì giờ đây lại có thể đang đứng đây để chuẩn bị tuyên thệ nhậm chức.
Vì vậy hãy cùng nhau ghi nhớ ngày này, để biết chúng ta là ai và chúng ta đã tiến xa tới đâu. Vào cái năm nước Mỹ được sinh ra, trong tháng lạnh giá nhất, một nhóm nhỏ những người yêu nước dồn lại trong tình cảnh lửa đang tắt lịm dần bên một dòng sông đã đóng băng. Thủ đô đã bị phong toả. Quân thù đang tiến tới. Tuyết trắng chan hoà cùng máu đỏ. Vào thời khắc mà cuộc cách mạng đang đứng trước thời khắc thử thách nhất, người cha của đất nước ta đã đọc những lời này với mọi người:
"Hãy để hậu thế nói với thế giới tương lai… rằng giữa sâu thẳm của mùa đông, khi mà không còn tồn tại gì ngoài hy vọng và nhân cách... rằng thành phố và đất nước của ta, đang đối mặt với một nguy hiểm chung, hãy tiến lên đối mặt với nó!"
Nước Mỹ, đang đối mặt với một nguy hiểm chung, vào thời khắc mùa đông khó khăn này, chúng ta hãy cùng nhớ lại những từ bất hủ đó. Với hy vọng và nhân cách, một lần nữa, chúng ta hãy dũng cảm đối mặt với tình thế đóng băng hiện nay, và bền gan cho dẫu bão tố nào có tới đi nữa. Hãy để cháu chắt của chúng ta được nghe chuyện rằng, khi chúng ta bị thử thách, chúng ta đã không bỏ dở hành trình, chúng ta không lui bước hay gục ngã; và với đôi mắt nhìn thẳng về chân trời phía trước cùng Chúa trời phù hộ trên cao, chúng ra tiếp tục dành lấy món quà tuyệt vời của tự do và giao nó cho các thế hệ tương lai.
*
T.B - H.Q (dịch)
www.vdnh.vn theo: tin 247
Đọc thêm!
Những người đồng bào của tôi,
Tôi đứng đây ngày hôm nay, nhỏ bé trước trọng trách phía trước chúng ta, biết ơn vì sự tín nhiệm các bạn đã trao tặng, lưu tâm tới những hy sinh của ông cha chúng ta. Tôi đã cảm ơn Tổng thống Bush vì sự cống hiến của ông cho đất nước của chúng ta cũng như sự hào phóng và hợp tác mà ông đã thể hiện trong suốt quá trình chuyển giao (quyền lực) này.
Tính tới thời điểm hiện tại, 44 người Mỹ đã đọc lời tuyên thệ nhậm chức. Các lời lẽ đã được xướng lên trong những đợt thủy triều dâng trào của sự thịnh vượng và mặt nước tĩnh lặng của hoà bình. Tuy nhiên, thường thì lời tuyên thệ nhậm chức được thực hiện trong lúc những đám mây quần tụ và các cơn bão điên cuồng. Vào những giây phút này, nước Mỹ đang tiến bước không chỉ bởi vì kĩ năng và tầm nhìn của những người cầm quyền cao nhất mà vì chúng ta, người dân, vẫn trung thành với các tư tưởng của các bậc tiền bối và tôn trọng các văn bản đã ban hành của chúng ta.
Mọi việc đã diễn ra như vậy. Và chúng sẽ phải như vậy trong thế hệ này của người dân Mỹ.
Hiện ai cũng hiểu rõ việc chúng ta đang ở giữa khủng hoảng. Đất nước chúng ta đang trong cuộc chiến chống một mạng lưới bạo lực và sự hận thù rộng lớn. Nền kinh tế của chúng ta đặc biệt bị suy yếu, một hậu quả của sự tham lam và vô trách nhiệm của một số đối tượng, nhưng cũng là thất bại của toàn thể chúng ta trong việc đưa ra những quyết định khó khăn và chuẩn bị cho đất nước bước vào một thời kỳ mới. Rất nhiều gia đình mất nhà ở; việc làm bị cắt giảm; các doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động. Chăm sóc y tế của chúng ta quá đắt đỏ; các trường học của chúng ta không đáp ứng được mong đợi của nhiều người và mỗi ngày lại xuất hiện thêm những bằng chứng cho thấy các cách thức sử dụng năng lượng của chúng ta đang tăng cường sức mạnh cho các kẻ thù của chúng ta và đe doạ hành tinh này.
Đây là những biểu hiện của khủng hoảng, theo các dữ liệu và con số tính toán. Thiếu tính toán nhưng không thiếu đào sâu suy nghĩ là sự đào bới niềm tin khắp mảnh đất của chúng ta - một nỗi sợ hãi dai dẳng rằng sự suy sụp của nước Mỹ là không thể tránh khỏi và rằng thế hệ tiếp theo sẽ phải hạ thấp các tầm ngắm của họ.
Hôm nay, tôi nói với các bạn rằng những thách thức mà chúng ta đang đối mặt là có thực. Chúng rất nghiêm trọng và rất nhiều. Chúng sẽ không dễ gì được giải quyết hoặc kéo dài trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên, nước Mỹ nên biết điều này - các thách thức đó sẽ được giải quyết.
Ngày hôm nay, chúng ta có mặt ở đây vì chúng ta đã chọn hy vọng thay vì sợ hãi, thống nhất các mục đích thay vì xung đột và bất hoà.
Ngày hôm nay, chúng ta tới đây để tuyên bố chấm dứt những lời than phiền vụn vặt và những lời cam kết giả dối, các lời buộc tội lẫn nhau và niềm tin rạn nứt và chấm dứt việc đời sống chính trị của chúng ta đã bị bóp nghẹt quá lâu rồi.
Chúng ta vẫn là một đất nước non trẻ, nhưng theo Kinh thánh, thời gian đã tới để loại bỏ những thứ ngây ngô. Thời gian đã tới để tái xác nhận một lần nữa tinh thần nhẫn nại của chúng ta; để lựa chọn cho chúng ta lịch sử tốt đẹp hơn; chuyển giao món quà quý giá đó, ý tưởng đáng khâm phục đó, vốn được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác: Lời cam kết của Chúa rằng tất cả đều bình đẳng, tất cả đều tự do và tất cả đều xứng đáng có cơ hội được theo đuổi tiêu chuẩn toàn diện của họ về hạnh phúc.
Trong khi tái khẳng định sự vĩ đại của đất nước chúng ta, chúng ta hiểu được rằng sự vĩ đại không bao giờ là cái có sẵn. Đó là thứ phải giành được. Cuộc hành trình của chúng ta chưa bao giờ là một trong những chuyến đi rút ngắn hay được định đoạt vì cái kém cỏi hơn. Đó không phải là con đường dành cho những người nhút nhát - cho những ai thích sự nhàn rỗi hơn công việc hay chỉ tìm kiếm niềm vui thích của sự giàu có và nổi tiếng. Nói đúng hơn, đó là con đường dành cho những người chấp nhận mạo hiểm, những người thực hiện, sáng tạo ra mọi thứ - một số người nổi danh nhưng đa phần họ là những người phụ nữ, nam giới vô danh trong công việc của mình, những người đã đưa chúng ta tiến bước trên con đường dài, gập ghềnh để tới sự thịnh vượng và tự do.
Đối với chúng ta, họ đã gói ghém những hành trang trải nghiệm ít ỏi của mình và vượt qua các đại dương để tìm kiếm một cuộc sống mới.
Đối với chúng ta, họ đã làm việc cặm cụi trong các công xưởng bóc lột công nhân tàn tệ và định cư ở phương Tây; chịu đựng đòn roi và cày những mảnh đất cằn cỗi.
Đối với chúng ta, họ đã chiến đấu và hy sinh; ở những nơi như Concord và Gettysburg; Normandy...
Thời gian và một lần nữa những người phụ nữ và nam giới này đã đấu tranh, hy sinh và làm việc cho tới khi tay họ chai lại để chúng ta có thể có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Họ đã nhận thấy nước Mỹ to lớn hơn một tập hợp của những tham vọng cá nhân của chúng ta; vĩ đại hơn tất cả những khác biệt về dòng dõi hay của cải hoặc bè phái.
Đây là cuộc hành trình mà chúng ta sẽ tiếp tục ngày hôm nay. Chúng ta vẫn là một cường quốc thịnh vượng và hùng mạnh nhất trên trái đất. Các công nhân của chúng ta không kém năng suất hơn khi cuộc khủng hoảng đã bắt đầu. Đầu óc chúng ta không kém sáng tạo hơn. Nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ của chúng ta không kém hơn tuần trước, tháng trước hay năm trước. Khả năng của chúng ta vẫn chưa bị suy giảm. Tuy nhiên, thời mà chúng ta vẫn khư khư ý kiến bảo vệ các lợi ích hẹp hòi và trì hoãn các quyết định khó khăn chắc hắn đã qua. Bắt đầu từ hôm nay, chúng ta phải vực dậy bản thân, cải thiện mình và bắt đầu lại công việc tái thiết nước Mỹ.
Ở bất cứ đâu mà chúng ta hướng tới sẽ có việc cần phải hoàn thành. Tình trạng kinh tế đòi hỏi hành động, táo bạo và mau lẹ. Và chúng ta phải hành động - không chỉ tạo ra các việc làm mới mà đề ra một cơ sở mới cho sự tăng trưởng. Chúng ta sẽ xây dựng các con đường, các cây cầu, mạng lưới điện và các tuyến dữ liệu mã hoá giúp ích cho nền thương mại của chúng ta và gắn kết chúng ta với nhau. Chúng ta sẽ khôi phục khoa học về đúng chỗ của nó cũng như tận dụng sự kỳ diệu của công nghệ để cải thiện chất lượng chăm sóc y tế và hạ giá thành dịch vụ này. Chúng ta sẽ khai thác mặt trời, gió và đất đai để tiếp nhiên liệu cho các xe hơi của chúng ta và vận hành các nhà máy. Và chúng ta sẽ cải tổ các trường phổ thông, cao đẳng và đại học của chúng ta nhằm đáp ứng những yêu cầu của một thời kỳ mới. Tất cả những điều này chúng ta có thể làm được. Tất cả những điều này chúng ta sẽ làm.
Hiện tại, có một số người đang hoài nghi về mức độ các tham vọng của chúng ta. Họ đề xuất rằng hệ thống của chúng ta sẽ không thể chống chịu được quá nhiều kế hoạch lớn. Khả năng ghi nhớ của họ thật hạn hẹn vì họ đã quên những gì mà đất nước này đã làm được; những gì mà những người phụ nữ và nam giới tự do có thể giành được khi khả năng sáng tạo được hoà hợp vì mục đích chung; và hoàn cảnh bắt buộc phải có dũng khí.
Điều mà những người hoài nghi không hiểu là đất đã chuyển dời dưới chân họ và rằng những luận điểm chính trị cũ rích từng huỷ hoại chúng ta suốt một thời gian dài không còn hiệu quả nữa. Câu hỏi chúng ta đặt ra ngày hôm nay không phải là liệu chính phủ của chúng ta quá lớn hay quá nhỏ mà là liệu nó có hoạt động hiệu quả , liệu nó có thể giúp đỡ các gia đình tìm được việc với thu nhập hợp lí, sự quan tâm mà họ có thể được hưởng và sự nghỉ ngơi đáng đề cao. Nếu câu trả lời là có, thì chúng ta dự định tiến bước. Nếu câu trả lời là không thì mọi chương trình sẽ chấm dứt. Và những ai trong chúng ta, những người nắm quyền quản lý các đồng đô la của công chúng sẽ phải chịu trách nhiệm - chi tiêu khôn ngoan, thay đổi những thói quen xấu và làm công việc của mình trong sự minh bạch - bởi vì chỉ khi đó chúng ta mới có thể khôi phục được sự tin tưởng thiết yếu giữa người dân và chính phủ của họ.
Câu hỏi phía trước chúng ta hiện nay cũng không phải là: liệu thị trường là một lực lượng vĩnh viễn hay tạm thời. Sức mạnh tạo ra của cải và phát triển sự tự do của nó là không thể sánh kịp nhưng cuộc khủng hoảng đã gợi nhắc chúng ta rằng không có một cái nhìn thận trọng thì thị trường có thể vọt ra ngoài tầm kiểm soát - và rằng một đất nước không thể thịnh vượng dài lâu khi họ chỉ chú trọng đến những thuận lợi. Sự thành công của nền kinh tế chúng ta luôn luôn không những phụ thuộc vào quy mô tổng sản phẩm quốc nội (GDP) mà còn cả phạm vi của sự thịnh vượng; vào khả năng mở rộng cơ hội tới mọi con người quyết tâm - không nằm ngoài lòng nhân hậu mà bởi vì đó là con đường chắc chắn nhất hướng tới sự tốt đẹp chung cho tất cả chúng ta.
Vì lợi ích chung, chúng ta phản đối việc đánh đổi việc giữ gìn sự an toàn với lý tưởng của chúng ta. Ông cha ta đã đối mặt với khó khăn vất vả và hy sinh để thảo nên và giữ gìn những quy định về quyền con người, đã có những chương sử viết bằng máu của biết bao thế hệ. Những lý tưởng đó vẫn soi sáng thế giới hôm nay, và chúng ta không hy sinh chúng. Và xin gửi lời tới nhân dân và chính phủ các nước đang dõi xem buổi lễ hôm nay, từ những thủ đô tráng lệ nhất cho tới những thôn làng nhỏ nhất như nơi cha tôi đã sinh ra, rằng xin hãy biết nước Mỹ là bạn của mỗi quốc gia, mỗi người đàn ông, đàn bà, trẻ thơ đang tìm kiếm hoà bình và danh dự. Và một lần nữa, chúng ta đã sẵn sàng đi đầu trong sự nghiệp chung đó.
Hãy nhớ rằng các thế hệ gần đây đã đối mặt với phát xít...không chỉ bằng tên lửa và xe tăng, mà bằng cả sự đoàn kết keo sơn và bằng những lý lẽ chắc chắn, vững vàng. Những thế hệ tiền bối đó đã hiểu rằng, chúng ta không thể chỉ dùng sức mạnh để bảo vệ mình, hay tự cho phép mình làm như vậy. Thay vào đó, họ đã hiểu rằng sức mạnh của chúng ta phát sinh từ việc sử dụng hợp lý sức mạnh sẵn có một cách phù hợp nhất; an ninh của chúng ta có được từ chính nghĩa, chẳng hạn, từ sự khiêm nhường và kiềm chế thực sự.
Chúng ta là người gìn giữ những huyền thoại đó. Với những nguyên tắc này làm kim chỉ nam, một lần nữa, chúng ta có thể có được sự hợp tác và hiểu biết lẫn nhau tốt hơn từ các quốc gia khác nhau, một khi phải đối mặt với những nguy cơ lớn hơn trong tương lai. Chúng ta sẽ chuyển giao Iraq một cách có trách nhiệm cho nhân dân Iraq, và củng cố nền hoà bình ở Afghanistan.
Xin nói với cả các bạn xưa lẫn những kẻ thù cũ, rằng chúng tôi sẽ phải làm việc không mệt mỏi để có thể giảm thiểu các nguy cơ hạt nhân và đẩy lùi bóng ma của việc ấm lên toàn cầu. Chúng tôi sẽ không xin lỗi về cách sống của mình, cũng như không do dự trong việc bảo vệ cho mình, và với những kẻ muốn thực hiện mưu đồ khủng bổ và giết hại dân thường vô tội, xin cảnh báo rằng tinh thần của chúng tôi giờ thậm chí còn mạnh mẽ hơn và không thể bị phá vỡ, các người sẽ không thể tồn tại lâu và chúng tôi sẽ đánh bại các người.
Và chúng ta hiểu rõ di sản của mình là sức mạnh lớn chứ không phải là điểm yếu. Chúng ta là một đất nước của người Thiên Chúa Giáo cũng như Hồi Giáo, của người Do Thái cũng như người Hindus — và của người không theo đạo. Chúng ta được định hình từ mọi thứ ngôn ngữ và văn hoá, vẽ từ những nét khác nhau từ khắp trái đất này; và vì chúng ta cũng đã nếm trải vị đắng của nội chiến đau thương, và cũng đã nổi lên từ đêm đen đó bằng sức mạnh của tình đoàn kết, chúng ta không thể không tin rằng, những định kiến xưa cũ rồi sẽ biến mất hoàn toàn; những khoảng cách về dòng giống sẽ được giải quyết hoàn toàn; và khi đó thế giới sẽ trở nên gần gũi hơn, nhân quyền của chúng ta sẽ tự sáng lên; và Mỹ phải đóng vai trò thúc đẩy một kỷ nguyên mới của hoà bình.
Và xin gửi lời tới thế giới Hồi Giáo rằng, chúng tôi đang tìm kiếm một hướng đi mới tới phía trước, dựa trên lợi ích chung và sự tôn trọng lẫn nhau. Xin nói với những nhà lãnh đạo trên trái đất đang kiếm cách gây hiềm khích, hoặc đang đổ lỗi những yếu kém của mình là do phương Tây gây ra, xin hãy biết rằng nhân dân của các vị sẽ phán xét các vị dựa trên những gì các vị đang dựng xây chứ không phải đang phá huỷ. Xin nói với những ai đang leo lên quyền lực bằng con đường tham nhũng và trấn áp sự bất đồng chính kiến, rằng các vị đang đi sai con đường lịch sử, song chúng tôi sẽ dang tay nếu các vị tự giải phóng cho mình đầu tiên.
Và xin gửi lời tới nhân dân các nước nghèo, rằng chúng tôi cam kết sẽ đứng cùng các bạn để giúp mùa màng các bạn bội thu, để khơi thông những dòng nước mát lành, để nuôi dưỡng những cơ thể đang héo hon và để bồi đắp tinh thần cho những con người đang khao khát nhận thức. Và xin nói với những quốc gia giống quốc gia chúng tôi, những quốc gia đang được hưởng thụ khá nhiều, rằng đã đến lúc chúng ta không nên để cho những người dân khác phải sống trong chịu đựng dù ở ngoài biên giới chúng ta, và đã đến lúc chúng ta không thể tiêu thụ tài nguyên của thế giới mà không để ý tới những hậu quả của nó với xung quanh. Để có một thế giới đổi thay, chúng ta phải thay đổi cùng nó.
Trong khi chúng ta đang xem xét cho đoạn đường phía trước, hãy dành những tình cảm biết ơn và kính trọng cho những người Mỹ dũng cảm mà vào giờ phút này đây, đang bồng súng đi tuần trên cát nóng sa mạc hay trên những ngọn núi cao ngoài xa. Họ có nhiều điều để nói với chúng ta hôm nay, hay những người đã nằm xuống trong tiếng nguyện cầu ở Arlington nhiều thế hệ nay. Chúng ta tôn vinh họ không chỉ vì họ là những người gác canh cho tự do của chúng ta, mà còn vì họ là biểu trưng cho tinh thần phục vụ nhân dân, cho sự sẵn sàng cống hiến vì một mục tiêu cao cả hơn cả lo cho bản thân mình. Và điều đó, ngay trong lúc này đây - thời khắc quyết định một thế hệ mới – đó chính là tinh thần mà chúng ta thừa hưởng.
Bất cứ những gì chính phủ có thể làm và buộc phải làm, nhất thiết phải trung thành và kiên định với nhân dân, nền tảng của đất nước này. Lòng tốt sẽ được ghi nhận khi cứu giúp người lạ khi có một con đê bị vỡ. Lòng vị tha sẽ được ghi nhận khi những người công nhân thà giảm giờ làm của mình còn hơn nhìn thấy đồng nghiệp phải mất việc trong những thời khắc khó khăn nhất. Lòng dũng cảm sẽ được ghi nhận khi ngwời lính cứu hoả tìm đường leo lên cầu thang dày đặc khói hay thậm chí chỉ là việc bố mẹ nuôi dưỡng con cái mình. Những đức tính đó tạo nên số phận của chúng ta.
Thách thức của chúng ta có thể sẽ phát sinh mới lạ. Công cụ đi kèm với những thách thức đó mà chúng ta phải đối mặt có thể cũng mới lạ. Song với những giá trị đã giúp tạo nên thành công của chúng ta – siêng năng, trung thực, dũng cảm, fair play, khoan dung, quan tâm chia sẻ, trung thành và ái quốc – thì những thách thức mới lạ ấy rồi cũng sẽ trở thành quá khứ. Những thách thức là có thực. Nó âm thầm xuyên suốt lịch sử của chúng ta. Đòi hỏi của quá khứ là phải tìm ra sự thật. Đòi hỏi của chúng ta ngày nay là một kỷ nguyên mới với đầy đủ trách nhiệm - một sự công nhận, đối với mọi người Mỹ, rằng chúng ta phải có trách nhiệm với chính bản thân mình, với đất nước và với thế giới, những trách nhiệm mà chúng ta không thể nhận bừa song lại phải đón lấy nó một cách vui vẻ, với lập trường vững chắc rằng không có gì thoả mãn tinh thần hơn, định nghĩa được tính cách chúng ta hơn là xả thân vì những trọng trách như vậy.
Thách thức đó là cái giá của những cam kết về quyền công dân.
Đó là khởi nguồn của niềm tin của chúng ta - niềm tin tưởng rằng Chúa Trời đã gọi tên chúng ta để kiến tạo nên vận mệnh chưa định sẵn.
Đây là ý nghĩa của tự do và hệ tư tưởng của chúng ta, là lý do mà mỗi người đàn ông, đàn bà, trẻ thơ của mọi sắc tộc có thể cùng tham gia hội họp cùng nhau tại địa điểm tráng lệ này, là lý do mà một người đàn ông mà nếu chưa đầy 60 năm trước không thể phục vụ ở một nhà hàng địa phương thì giờ đây lại có thể đang đứng đây để chuẩn bị tuyên thệ nhậm chức.
Vì vậy hãy cùng nhau ghi nhớ ngày này, để biết chúng ta là ai và chúng ta đã tiến xa tới đâu. Vào cái năm nước Mỹ được sinh ra, trong tháng lạnh giá nhất, một nhóm nhỏ những người yêu nước dồn lại trong tình cảnh lửa đang tắt lịm dần bên một dòng sông đã đóng băng. Thủ đô đã bị phong toả. Quân thù đang tiến tới. Tuyết trắng chan hoà cùng máu đỏ. Vào thời khắc mà cuộc cách mạng đang đứng trước thời khắc thử thách nhất, người cha của đất nước ta đã đọc những lời này với mọi người:
"Hãy để hậu thế nói với thế giới tương lai… rằng giữa sâu thẳm của mùa đông, khi mà không còn tồn tại gì ngoài hy vọng và nhân cách... rằng thành phố và đất nước của ta, đang đối mặt với một nguy hiểm chung, hãy tiến lên đối mặt với nó!"
Nước Mỹ, đang đối mặt với một nguy hiểm chung, vào thời khắc mùa đông khó khăn này, chúng ta hãy cùng nhớ lại những từ bất hủ đó. Với hy vọng và nhân cách, một lần nữa, chúng ta hãy dũng cảm đối mặt với tình thế đóng băng hiện nay, và bền gan cho dẫu bão tố nào có tới đi nữa. Hãy để cháu chắt của chúng ta được nghe chuyện rằng, khi chúng ta bị thử thách, chúng ta đã không bỏ dở hành trình, chúng ta không lui bước hay gục ngã; và với đôi mắt nhìn thẳng về chân trời phía trước cùng Chúa trời phù hộ trên cao, chúng ra tiếp tục dành lấy món quà tuyệt vời của tự do và giao nó cho các thế hệ tương lai.
*
T.B - H.Q (dịch)
www.vdnh.vn theo: tin 247
Đọc thêm!
Thứ Tư, 8 tháng 7, 2009
Kinh Nghiệm Cơ Đốc Nhân Có Giá Trị Không?
"Nếu bạn tin rằng cái đèn để bàn sở hữu những thuộc tính như Đức Chúa Trời của bạn, thì bạn có thể nhận được một câu trả lời tương tự", một sinh viên trường luật tuyên bố như vậy. Câu nói đầy tính hoài nghi đó đã cho tôi biết điều hàng ngàn người suy nghĩ - cho rằng kinh nghiệm của Cơ Đốc nhân hoàn toàn mang tính chủ quan và cá nhân, không có giá trị khách quan, vĩnh cửu hay phổ quát.
Tiền đề đứng sau khái niệm trên cho rằng lý trí có khả năng lý luận vô hạn. Người ta cho rằng niềm tin vào Đức Chúa Trời chỉ là việc thực hiện điều mình muốn. Đối với những người trưởng thành thì đó là thái độ muốn lui về tình trạng ta cần có hình ảnh một người cha.
Dù được diễn đạt ra hay không, lời quyết đoán đều ngụ ý rằng Cơ Đốc giáo chỉ dành cho những người què quặt về tình cảm nếu không có cây nạng ấy họ không thể tiếp tục cuộc sống được.
Nhiều người cho rằng sự cải đạo Cơ Đốc chỉ là một kinh nghiệm tâm lý, hậu quả của một cuộc tẩy não. Nhà truyền giảng là một bậc thầy trong nghệ thuật nhồi sọ. Sau khi đã nhồi đám cử tọa rồi thì ông thấy họ thật mềm dẻo trong tay ông. Ông có thể bảo họ làm bất cứ việc gì nếu biết đòi hỏi họ quyết định đúng lúc và đúng cách.
Có người còn đi xa hơn. Họ cho rằng kinh nghiệm của Cơ Đốc nhân đôi khi vô cùng tai hại. Nhiều sinh viên đã bị cha mẹ không tin Chúa giao cho bác sĩ chữa bệnh tâm thần sau khi họ tự nguyện tin Chúa. "Cứ nhìn bọn điên đạo trong các dưỡng trí viện thì biết. Chính tôn giáo của họ đã đưa họ vào đó. "Những người cảm thấy như vậy đều sa vào "yếu tố sai lầm chung” được Anthony Staden vạch rõ. Ông kể rằng có một người kia cứ mỗi thứ hai thì uống whisky pha nước soda; mỗi thứ ba thì uống brandy pha với nước soda và mỗi thứ tư thì gin pha với nước soda. Thế thì cái gì khiến ông ta nghiện rượu như thế? Rõ ràng là yếu tố chung, tức là nước soda! 1
Trạm cuối cùng trên chuyến xe lửa
Nhiều người xem giáo hội giống như là trạm cuối trên chuyến xe lửa trước khi mất khả năng tự lực. Tuy nhiên nếu khảo sát thật kỹ một người loạn óc sẽ thấy rằng họ mất thăng bằng và mất ý thức về nhiều lãnh vực khác chứ không chỉ trong sinh hoạt tôn giáo mà thôi. Phải nhìn nhận rằng giáo hội đã sẵn sàng giúp đỡ mọi người bất chấp hoàn cảnh của họ thế nào. Chắc chắn vài rối loạn về cảm xúc có thể có nguồn gốc từ tâm linh. Dù chúng ta phải đối diện với nhiều thử thách, nhưng khi tái lập mối quan hệ với Đức Chúa Trời qua Chúa Giê-xu Christ thì chúng ta sẽ được giải thoát và chữa lành.
Ở một vài nơi, thành kiến về giá trị của kinh nghiệm của Cơ Đốc nhân nặng nề đến nỗi họ từ chối cấp bằng đại học cho những sinh viên Cơ Đốc. Một người bạn của tôi, theo học một trong những trường đại học rất nổi tiếng, bị từ chối cấp bằng tiến sĩ trong ngành khoa học xã hội. Người ta bảo rằng: “Vì anh tin Đức Chúa Trời nên theo định nghĩa anh là một tên khùng."
Vài người theo chủ nghĩa hoài nghi bảo rằng tất cả những kinh nghiệm của Cơ Đốc nhân có thể được giải thích căn cứ vào những phản xạ có điều kiện. Tư tưởng này bắt nguồn từ các thí nghiệm của nhà bác học lừng danh người Nga là Pavlov. Ông ta tìm cách đặt những dụng cụ đo lường vào miệng và bao tử một con chó để xác định việc sản xuất dịch vị. Rồi ông đem thức ăn đến cho con chó, đồng thời rung chuông lên. Sau khi lặp đi lặp lại việc ấy nhiều lần, Pavlov chỉ rung chuông mà không cần đem thức ăn đến con chó vẫn chảy nước miếng như thường. Kết luận rút ra từ những thí nghiệm đó là do những lần lặp đi lặp lại đúng điều kiện như trên, tâm trí có thể bị sai khiến để sẵn sàng tạo ra các phản ứng ta muốn. Người chủ xướng quan niệm nầy cho rằng căn cứ vào thí nghiệm trên đây chúng ta có thể giải thích tất cả những thay đổi về mặt chính trị, xã hội và tôn giáo. Trên đây là những lời đả kích nghiêm trọng, có ảnh hưởng sâu xa và một vài luận cứ xem ra cũng có vẻ có lý.
Kinh nghiệm Cơ Đốc nhân có giá trị không?
Ngay từ đầu, trong một số trường hợp, chúng ta phải nhìn nhận khả năng có thể khuấy động cảm xúc con người. Và chúng ta phải nhận rằng một vài người dạy dỗ hay giảng đạo vô tình hay hữu ý kích thích cảm xúc thính giả của họ bằng những câu chuyện hù dọa, những màn trình diễn điệu bộ và những phương pháp khác.
Trong câu chuyện về người gieo giống, Chúa Giê-xu cũng đã ngụ ý cảnh cáo về việc chỉ khuấy động cảm xúc mà thôi. Ngài mô tả về loại người nghe đạo và thích sứ điệp Tin Lành cũng giống như hạt giống rơi nhằm nơi sỏi đá. Lúc đầu người ấy nhận sứ điệp với sự vui mừng nhưng rễ không bao giờ đâm sâu được. Người nghe chịu đựng được một thời gian, nhưng khi khó khăn ập đến thì không có một niềm tin rõ ràng nào. Họ quay đi và ngã quị dọc đường.
Điều nầy cho thấy rằng khi chúng ta nghe về Đức Chúa Trời và Chúa Giê-xu Christ, cảm xúc của chúng ta có thể bị lay động. Nếu và khi thời điểm khó khăn xảy đến, thì cặp kiếng hồng rơi mất. Chúng ta khám phá ra rằng cuộc sống nhìn chung là giải quyết vấn đề. Và "không phải ngày nào cũng là ngày may mắn" như lời Max Lucado. Cảm xúc thì giao động và thậm chí có thể thay đổi theo thời tiết, nhưng chân lý Cơ Đốc không dựa vào cảm xúc dâng trào, đó là một tin mừng. Trong thời điểm nghi ngờ, nó giúp ích cho việc xem xét các sự kiện, và chúng ta tìm thấy kết quả nơi một niềm tin sâu sắc hơn nữa.
Vấn đề của ý chí
Orville S. Walters, một nhà tâm lý học Cơ Đốc đã chỉ ra rằng ý chí giống như chiếc xe có hai con ngựa kéo - tình cảm và trí óc. Với một số người thì ý chí (cái xe kéo) phản ứng nhanh hơn thông qua tình cảm. Với một số người khác thì ý chí (cái xe kéo) đạt được thông qua trí óc. Nhưng trong mỗi trường hợp một đức tin chân thành liên quan đến quyết định của ý chí. 2
Chúng ta phải nhìn nhận rằng tiềm năng của những phản ứng tình cảm chóng qua, nhưng chúng ta không thể giải thích tất cả kinh nghiệm Cơ Đốc nhân dựa trên nền tảng tâm lý. Nó không thích hợp với những sự kiện. Chúng ta làm tốt trong việc quan sát một nguyên tắc áp dụng ở đây cũng như trong những lãnh vực khác: mô tả một việc không giống với việc giải thích việc đó. Dĩ nhiên, kinh nghiệm của Cơ Đốc nhân có thể được mô tả theo cách tâm lý học nhưng điều này không thể giải thích tại sao nó xảy ra và cũng không phủ nhận tính thực tế của nó.
Chúng ta đã mô tả tính thực tế của tình yêu thật của Đức Chúa Trời đối với chúng ta, không phải do công trạng của chúng ta và chúng ta không xứng đáng được nhận. Kinh nghiệm về một sự bảo đảm và chấp nhận có thể đem lại niềm vui và sự thỏa lòng từ bên trong. Một tác giả đã nói: “Khá nếm thử xem Đức Giê-hô-va tốt lành dường bao" (Thi Tv 34:8). Hãy tự kiểm chứng lấy phần giả thuyết về Chúa Giê-xu là Con hằng sống của Đức Chúa Trời trong phòng thí nghiệm của cuộc sống mình. Cùng với chân lý về sự mạc khải khách quan của Đức Chúa Trời, kinh nghiệm cá nhân của Cơ Đốc nhân bảo đảm với chúng ta về tính đáng tin cậy của sứ điệp.
Một phản xạ có điều kiện?
Những điều nào phản đối ý kiến cho rằng kinh nghiệm của Cơ Đốc nhân chỉ là một phản xạ có điều kiện?
Trước hết, việc so sánh giữa người và động vật có thích đáng không? Con người thì có lý trí và khả năng phê bình, và năng lực tự phân tích, tự xét mình và tự phê bình mình khiến con người khác với động vật. Câu trả lời của D. Martyn Lloyd-Johnes đối với cuốn sách có sức thuyết phục Chiến Trường Tâm Trí (Battle for the Mind), qua nhân vật William Sargant, gây rất nhiều ảnh hưởng là: "Nói một cách khác, sự so sánh chỉ có giá trị trong một thời điểm nhất định (như thời chiến) khi những đặc điểm của con người hoàn toàn bị loại khỏi hành động, và con người vì quá khủng hoảng, lúc ấy đã bị đẩy xuống một cấp bậc ngang hàng với động vật." 3
Thứ hai, nếu chúng ta chỉ là những đối tượng của những phản xạ có điều kiện thì điều này cũng phải giải thích cho những hành động của những người anh hùng vĩ đại và những sự hy sinh mà con người vẫn lấy làm hãnh diện. Những hành động như vậy cũng không mang ý nghĩa gì khác hơn là những phản ứng đối với những kích thích đạt đến một mức độ nào đó. Nếu rút ra một kết luận hợp lý, thì một quan điểm tất định về hành vi của con người sẽ loại bỏ mọi trách nhiệm đạo đức - điều gì sắp xảy ra thì sẽ xảy ra và tôi không thể thay đổi nó được. Hay những gì xảy ra "không phải là lỗi của tôi; chỉ là do gien di truyền của tôi mà thôi." Những ai theo quan điểm tất định về phương diện triết học có khuynh hướng phủ nhận vị trí thú vị này trong những thói quen sinh hoạt hằng ngày. Cũng giống như bất cứ người nào khác, họ muốn kẻ trộm bị bắt ngay nếu họ là người bị trộm.
Phản xạ có điều kiện không giải thích được về số lượng lớn những người làm chứng về những kinh nghiệm không thể phủ nhận được của Cơ Đốc nhân. Vì hàng ngàn người được nuôi dưỡng trong gia đình Cơ Đốc chẳng may lại chẳng bao giờ trở thành những Cơ Đốc nhân. Hàng ngàn người khác không hề có bối cảnh gia đình hay tri thức về đức tin đã trở thành những Cơ Đốc nhân. Tôi được biết có những người trở thành Cơ Đốc nhân ngay lần đầu tiên họ được nghe về câu chuyện Đức Chúa Trời cứu chuộc con người. Ngược lại, những người khác đã nghiên cứu những bằng cớ lặp lại nhiều lần trước khi quyết định tin Đấng Christ.
Những người trước kia hoặc ở trong bối cảnh tôn giáo khác hoặc chưa có tôn giáo nào khi đã trở thành những Cơ Đốc nhân họ đều làm chứng một cách thống nhất về một sự xác tín cá nhân từ bên trong. Sự kết ước hết lòng với Đấng Christ đem lại một kinh nghiệm khách quan và chắc chắn. Đời sống họ thay đổi cách hiển nhiên thì không phải là một điều giả dối cũng không phải là điều phi thường. Chúng ta có thể nghe hoặc đọc về hàng ngàn câu chuyện như thế.
Không thể kiếm được những kết quả như vậy bằng sự suy nghĩ tích cực từ một cái đèn bàn. Một "đối tượng tích cực" thì là điều cần thiết và cụ thể hơn cái đèn bàn gấp ngàn lần! Chỉ có những suy nghĩ tích cực thôi thì khác xa với niềm tin vào một Đấng sáng tạo hằng sống luôn chăm sóc cho chúng ta. Tôi rất cảm tạ Chúa vì người sinh viên luật khoa đã đề cập trên đây đã phó thác đời sống mình cho Đấng Christ sau một tuần lễ nghe thuyết trình.
Nạn nhân của tự kỷ ám thị (Autohypnosis)?
Nhưng làm sao chúng ta là tín hữu Cơ Đốc giáo biết được mình có phải là những nạn nhân của sự tự kỷ ám thị không? Làm sao chúng ta biết mình không huýt gió trong bóng tối để tăng thêm can đảm? Nhiều người tự xưng là đã kinh nghiệm một hiện thực nào đó nhưng chúng ta vẫn có quyền thắc mắc. Một lần nữa, phải có điều gì hơn những kinh nghiệm để làm nền tảng cho niềm tin của mình, nếu không thì chúng ta có thể gặp rắc rối.
Chẳng hạn, có một người bước vào cửa nhà thờ giắt trên vành tai trái của mình một cái trứng chiên. Ông nói với sự phấn khởi: “Ồ, cái trứng này thật sự đem lại cho tôi niềm vui, sự bình an, mục đích trong cuộc sống, sự tha thứ tội lỗi và sức mạnh để sống!" Bạn sẽ nói gì với ông ấy? Bạn không thể nói rằng ông ta không kinh nghiệm những điều này. Một trong những ưu thế của lời chứng cá nhân là không ai có thể cãi lại được gì cả. Người mù được Chúa Giê-xu chữa lành không thể trả lời nhiều câu hỏi được đặt ra cho anh ta nhưng anh ta biết chắc chắn sự kiện là bây giờ anh ta được sáng mắt (xem GiGa 9:1-41). Như thế, lời làm chứng của anh trở thành hùng biện, có sức mạnh thuyết phục.
Nhưng chúng ta có thể đặt nhiều câu hỏi cho người bạn với cái trứng chiên. Đây cũng là những câu hỏi một Cơ Đốc nhân phải chuẩn bị để trả lời.
Trước hết, có ai khác nữa có cùng một kinh nghiệm như vậy với cái trứng chiên không? Chắc ông bạn của chúng ta khó kiếm ra được nhiều người khác có cùng một kinh nghiệm như vậy. Vài năm trước đây, cố mục sư Harry Ironside đang giảng đạo thì có một người muốn chất vấn la lớn: “Chủ nghĩa vô thần còn làm được nhiều điều cho thế giới hơn là Cơ Đốc giáo!"
Ironside nói: “Tốt lắm, vậy tối mai mời ông đưa đến đây một trăm người đã được chủ nghĩa vô thần biến đổi để trở thành những người tốt, và tôi sẽ đem đến một trăm người đã được Đấng Christ thay đổi đời sống."
Khỏi phải nói, người bạn chất vấn đó không hề xuất hiện vào buổi tối hôm sau. Đối với Cơ Đốc giáo luôn luôn có vô số những người từ mọi chủng tộc, mọi quốc gia và mọi giai cấp luôn sẵn sàng làm chứng về kinh nghiệm của mình nhờ Chúa Giê-xu Christ mà có.
Thứ hai, chúng ta có thể hỏi người bạn có cái trứng chiên là: Có thực tại khách quan nào bên ngoài anh ta được gắn liền với kinh nghiệm chủ quan nội tại ấy không? Làm sao anh ta biết được rằng mình không phải là nạn nhân của sự tự kỷ ám thị? Dĩ nhiên là anh ta sẽ chẳng có gì để nói cả. Đối với Cơ Đốc giáo, kinh nghiệm chủ quan của cá nhân chúng ta được gắn liền với sự kiện lịch sử khách quan về sự phục sinh của Đấng Christ. Nếu Đấng Christ không từ cõi chết sống lại, chúng ta sẽ chẳng bao giờ kinh nghiệm được gì về Ngài. Chính vì Ngài đã từ cõi chết sống lại và hiện nay vẫn sống nên chúng ta mới thật sự biết Ngài.
Sự kiện lịch sử khách quan
Kinh nghiệm của Cơ Đốc nhân không thể xuất phát từ niềm tin vào những điều không có thật. Nó không giống như một cậu bé trong nhóm học sinh đã chết vì quá sợ hãi, trong trò chơi hù dọa ban đêm, khi cậu bị cột vào đường rầy xe lửa. Người ta nói với cậu rằng chừng năm phút nữa sẽ có một chuyến tàu lửa chạy đến nhưng không nói cho cậu biết là xe lửa sẽ chạy qua đường rầy song song gần đó. Cậu ta tưởng chỉ có một đường rầy duy nhất mà thôi. Khi cậu ta nghe tiếng con tàu đến gần thì đứng tim chết. Với Cơ Đốc giáo thì sẽ không có gì xảy ra nếu không có ai kinh nghiệm “không có ai ngoài đó cả."
Vì Đấng Christ thật sự ở đó, nên chúng ta có thể nhận thức được sự sống của Ngài hoạt động bên trong chúng ta. Nếu chúng ta nói rằng: “Tôi biết Đức Chúa Giê-xu Christ đã tha thứ tôi", đó mới là một nửa câu chuyện. Còn một nửa khác rất quan trọng ấy là chúng ta phải biết Ngài đang sống vì trong lịch sử Ngài đã từ chết sống lại. Kinh nghiệm cá nhân chủ quan của chúng ta được căn cứ trên một sự kiện lịch sử khách quan.
Khi nhận xét về sự thật mà những người đau khổ nói rằng họ bị một sức mạnh từ bên ngoài lôi kéo mình, J. B. Phillips nói:
Tôi biết rõ là mình đang mô tả một hiện tượng chủ quan mà thôi. Nhưng sự thật là khi tôi quan sát các hậu quả trong những hiện tượng khách quan, chẳng hạn sự can đảm, đức tin, hy vọng, vui mừng, sự kiên nhẫn, và những phẩm chất này có sẵn để quan sát. Người muốn chứng minh mọi thứ theo phương cách khoa học đã hoàn toàn có lý trong việc cố nài "những điều kiện của phòng thí nghiệm" nếu anh ta đang nghiên cứu, liệu chúng ta có thể nói rằng anh ta đang đoán trong nước (water-divining), có khả năng nhìn thấu được (clairvoyance) hoặc thần giao cách cảm (telekinesis) chăng.
Nhưng không thể nào có những thứ gọi là "điều kiện của phòng thí nghiệm" cho việc nghiên cứu lãnh vực tâm linh của con người trừ khi người ta nhìn nhận rằng "những điều kiện thí nghiệm" chẳng qua là chính cuộc sống con người. Con người chỉ có thể bộc lộ một cách khách quan sự thay đổi tâm tính, một đức tin hướng dẫn đời sống ngay trong cuộc sống thực tế mà thôi. 4
Giàu hay nghèo, địa vị cao hay thấp, nhu cầu của chúng ta đều giống nhau. Ravi Zacharias kể về cuộc phỏng vấn của David Frost với nhà tỉ phủ Ted Turner. Khi có người bất ngờ hỏi ông về điều ông hối tiếc trong cuộc đời mình, thì thái độ buồn bã hiện lên trên nét mặt Turner. Ông buồn bã trả lời: “Vâng, tôi đã đối xử với người vợ đầu tiên của tôi tệ bạc quá." 5
Chính trong những kết quả khách quan này chúng ta nhìn thấy một số sự đáp ứng năng động của Đấng Christ trong cuộc sống cá nhân mình. Ngài đáp ứng nhu cầu sâu xa nhất của chúng ta.
Mục đích và hướng dẫn
Đấng Christ hướng dẫn và ban cho chúng ta một đời sống có chủ đích. Ngài phán: “Ta là sự sáng của thế gian; người nào theo ta chẳng đi trong nơi tối tăm nhưng có ánh sáng của sự sống" (GiGa 8:12). Nhiều người đang ở trong bóng tối, không biết gì về mục đích của cuộc sống nói chung và cuộc sống của cá nhân họ nói riêng. Họ đang quờ quạng trong căn phòng cuộc sống để tìm cái công tắc đèn. Người nào đã từng ở trong một căn phòng tối và xa lạ đều biết cái cảm giác bất an này. Tuy nhiên khi đèn được bật lên thì cảm giác an toàn trở lại. Khi chúng ta bước từ bóng tối qua ánh sáng của cuộc sống trong Đấng Christ thì cũng vậy.
Trong Đấng Christ, Đức Chúa Trời ban cho cuộc sống chúng ta một mục đích vĩ đại, gắn chặt chúng ta với mục đích của Ngài cho lịch sử và cõi vĩnh hằng. Một Cơ Đốc nhân sống không chỉ cho hiện tại, nhưng cho cõi đời đời nữa. Thậm chí nếp sống hằng ngày của chúng ta cũng được biến đổi khi chúng ta sống trọn cuộc đời mình trong mục đích của Đức Chúa Trời và vâng theo lời khuyên: “Vậy anh em hoặc ăn hoặc uống hay là làm sự chi khác, hãy vì sự vinh hiển Đức Chúa Trời mà làm" (ICo1Cr 10:31). Mục đích này bao trùm tất cả mọi khía cạnh trong cuộc sống của chúng ta. Nó cũng là mục đích vô tận và vĩnh cửu. Dĩ nhiên những người chưa tin Chúa cũng có những mục đích tạm thời như gia đình, sự nghiệp và tiền bạc vốn đem lại sự thỏa mãn giới hạn. Nhưng dầu có tốt đẹp đến đâu đi nữa, những điều đó chỉ là tạm bợ và có thể tiêu tan theo sự thay đổi của hoàn cảnh.
Trong thời đại mà cuộc sống đã bị các triết gia hiện sinh mô tả là vô nghĩa và phi lý, thì không có điều gì mạnh mẽ và có ý nghĩa hơn là lời tuyên bố có thể kiểm chứng được của Đấng Christ.
Chúng ta được tạo dựng cho Đức Chúa Trời
Carl Gustav Jung có nói: “Nguyên nhân chính của các chứng bệnh thần kinh trong thời đại chúng ta là sự trống rỗng." Khi chưa có tiền tài, danh vọng, thành công, quyền lực và những điều bên ngoài khác, chúng ta tưởng là mình sẽ hoàn toàn hạnh phúc sau khi đạt được những điều đó. Nhiều người làm chứng lại những kinh nghiệm vỡ mộng khi đạt được những điều này và nhận thức ra rằng mình vẫn là con người khốn khổ như cũ. Tâm linh con người không thể được thỏa mãn "chỉ nhờ bánh mà thôi", nghĩa là nhờ những vật chất. Chúng ta đã được tạo dựng cho Đức Chúa Trời và chúng ta chỉ tìm được sự yên nghỉ trong Ngài.
Một chiếc xe hơi, dù có bóng loáng đến đâu, động cơ mạnh mẽ đến đâu, trang bị đầy đủ đến đâu cũng không thể chạy bằng nước được. Nó được chế tạo để chạy bằng dầu xăng thôi. Cũng vậy con người chỉ có thể tìm thấy sự trọn vẹn trong Đức Chúa Trời. Chính Đức Chúa Trời đã tạo dựng con người chúng ta như thế. Kinh nghiệm về Đấng Christ sẽ làm thỏa mãn người đó nhờ mối quan hệ cá nhân với Đấng Christ. Ngài phán: “Ta là bánh của sự sống; ai đến cùng ta chẳng hề đói, và ai tin ta chẳng hề khát" (GiGa 6:35). Khi một người kinh nghiệm Đấng Christ, người đó nhận được sự thỏa lòng, niềm vui và sự tươi mới thuộc linh từ bên trong khiến họ có thể sống vượt trên hoàn cảnh. Chính là thực tế này đã khiến sứ đồ Phao-lô nói: “Vì tôi đã tập hễ gặp cảnh ngộ nào cũng thỏa lòng ở vậy" (Phi Pl 4:11). Thực tại siêu nhiên này giúp cho Cơ Đốc nhân vui mừng giữa những hoàn cảnh khó khăn.
Lòng mong ước của chúng ta là được bình an
"Hòa bình trong thời đại của chúng ta" diễn tả một niềm khao khát bên trong mỗi người chúng ta khi những sự lựa chọn hằng ngày nhìn thẳng vào mặt chúng ta. Bên ngoài chúng ta hy vọng rằng những cuộc chiến nhỏ sẽ không bùng nổ thành những xung đột rộng lớn hơn trên bình diện quốc tế.
Hòa bình là điều tấm lòng mọi người mong mỏi. Nếu mua được nó, người ta dám bỏ ra bạc triệu. Khối lượng sách bàn về sự bình an của lý trí và tâm hồn bán rất chạy, chứng tỏ rằng chúng đã đụng tới chiều sâu nội tâm của cuộc sống của hàng triệu người. Còn văn phòng của những nhà tư vấn tâm lý thì chật cứng.
Chúa Giê-xu phán: “Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ " (Mat Mt 11:28). Chỉ một mình Đấng Christ mới ban sự bình an vượt quá trí hiểu, sự bình an mà thế gian không thể đem lại, cũng không thể cướp đi được. Rất cảm động khi được nghe những câu chuyện có thật về cuộc đời của những người đã không ngừng tìm kiếm trong một thời gian dài và cuối cùng đã tìm thấy sự bình an trong Đấng Christ. Gần đây những mối quan hệ gãy đổ, gia đình chia cắt và những thói quen lén lút càng ngày càng gia tăng khiến chúng ta khó lòng tìm kiếm sự bình an trong thời đại nầy. Người ta không ngại thử bất kỳ loại nghiện ngập nào, tội lỗi công khai hay những sự ghen ghét và ganh tị giấu kín với hy vọng viễn vông là sẽ tìm được sự bình an. Chỉ có một nơi đáng tin cậy và sẵn sàng ban sự bình an. Sự bình an thật sự và lâu dài xuất phát từ chính Đấng Christ mà thôi “Ngài là sự bình an của chúng ta" (Eph Ep 2:14).
Năng lực căn bản cần thiết
Xã hội ngày nay đang trải qua một tình trạng mất năng lực rất sâu xa, tức là sự thất bại về năng lực đạo đức. Những bậc cha mẹ biết rõ họ và con cái họ phải làm điều gì đúng, nhưng vì thiếu cương quyết, họ thấy rằng cứ xuôi theo đám đông thì dễ hơn. Con cái họ liền lợi dụng ngay thái độ đó. Kết quả là kiến trúc đạo đức của xã hội bị suy sụp đổ vỡ nhanh chóng. Đưa ra những lời khuyên tốt đẹp phải lẽ cho người già hay thanh niên chẳng khác gì bôi thuốc sát trùng loại nhẹ bên ngoài vết ung thư. Điều cần thiết phải có là một năng lực cơ bản.
Cơ Đốc giáo không mặc cho con người một bộ đồ mới, nhưng mặc một người mới vào trong bộ đồ. Chúa Giê-xu nói rằng: “Ta đã đến hầu cho chiên được sống, và được sự sống dư dật." (GiGa 10:10).Chúa Giê-xu ban cho chúng ta năng lực của Ngài. Năng lực nầy không những có thể giải thoát con người khỏi bất cứ xiềng xích trói buộc nào nhưng còn có thể tha thứ những ai làm lỗi với chúng ta, yêu những người không đáng yêu và chống lại cám dỗ muốn trả đũa. Người được tái sanh có những khẩu vị mới, khao khát mới, tình yêu mới. Thật sự, họ là "những tạo vật mới" (IICo 2Cr 5:17). Một lần nữa, người mới tiếp nhận Chúa trong thực tế đã bước ra khỏi sự chết để vào sự sống thuộc linh.
Vấn đề tội lỗi và sự cô đơn được giải quyết
Kinh nghiệm của Cơ Đốc nhân giải quyết vấn đề tội lỗi. Con người bình thường nào cũng cảm thấy tội lỗi. Mặc cảm tội lỗi là một cảm giác rất vô lý mà thực tế không có căn bản nào. Nhưng cảm biết mình phạm tội sau khi làm sai hay phạm một luật đạo đức nội tại là điều bình thường. Còn không cảm thấy mình có tội mới là bất thường. Một người vẫn dửng dưng sau khi cố ý giết người hay gây thương tích cho một người vô tội mới là bất thường. Ta không thể nào dùng lý luận để hợp lý hóa việc phạm tội được. Trong Đấng Christ có một nền tảng khách quan cho sự tha tội. Đấng Christ đã chết cho tội lỗi của chúng ta; án tử hình vốn dành cho chúng ta đã được Ngài chịu thay. "Cho nên, hiện nay chẳng còn có sự đoán phạt nào cho những kẻ ở trong Đức Chúa Giê-xu Christ" (RoRm 8:1). Sự tha tội cho từng cá nhân một là điều có thật. Cơ Đốc giáo giải quyết sự cô đơn của chúng ta, đây là cảm giác rất điển hình trong xã hội hiện đại. Điều khá mỉa mai là trong giai đoạn bùng nổ dân số thì lại có nhiều người cô đơn hơn. Đấng Christ là người chăn hiền lành (GiGa 10:14), Đấng sẽ không bao giờ lìa xa hay bỏ rơi chúng ta. Và Ngài sẽ đưa chúng ta vào trong một đại gia đình gồm cả thế giới bao la đầy những con người biết quan tâm.
Tái sinh đem lại cuộc sống mới
Cuối cùng, sau khi biết được giá trị của những kinh nghiệm của Cơ Đốc nhân, chúng ta nên nhận thức rằng sự mô tả tâm lý học về điều này cũng có giá trị trong phạm vi của nó. Nhưng nó chỉ là sự mô tả, không phải là nguyên nhân. Một người trở lại tin nhận Chúa Giê-xu Christ và đặt cuộc sống của họ vào trong tay của Chúa Giê-xu thì được "tái sinh" hay "sinh ra từ Đức Chúa Trời", có thần linh của Đức Chúa Trời, có một đời sống thuộc linh mới bên trong. Cuộc sống mới này giống như sự ra đời tự nhiên của một em bé, nó phải học những cái mới và làm những cái mới. Có vô số những câu mô tả sự "tái sanh" trong Tân Ước.
-"Ai tin Đức Chúa Giê-xu là Đấng Christ thì sanh bởi Đức Chúa Trời" (IGi1Ga 5:1).
- "Anh em đã được lại sanh, chẳng phải bởi giống hay hư nát, nhưng bởi giống chẳng hư nát, là bởi lời hằng sống và bền vững của Đức Chúa Trời." (IPhi 1Pr 1:23).
- "Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ thì nấy là người dựng nên mới." (IICo 2Cr 5:17).
Bước kế tiếp là khẳng định vị trí của chính mình với Đức Chúa Trời, Đấng sáng tạo diệu kỳ của chúng ta, và mối thông công cá nhân của bạn với Ngài. Bạn có thể đã thiết lập mối liên hệ với Ngài và chấp nhận lời mời gọi bước vào "đời sống mới". Hay bạn cần phải bước một bước kế tiếp, quyết định hành động và tìm kiếm Ngài một cách cá nhân. Chúa Giê-xu tóm tắt sự giáng thế của Ngài: “Ta là cái cửa (giống như cửa trại cừu). Nếu ai bởi Ta mà vào thì sẽ được cứu rỗi (tái sanh)" (GiGa 10:9).
Bạn đã tin Đức Chúa Giê-xu Christ một cách cá nhân hay bạn còn đang lưỡng lự?
Có một thanh niên đến nhà chúng tôi và hỏi tôi một số câu hỏi lý luận hóc búa đã chi phối anh ta về Đức Chúa Trời và niềm tin Cơ Đốc. Chúng tôi nói chuyện một lúc lâu, khi tôi hỏi anh ta đã dâng trọn vẹn đời sống và tin vào Chúa Giê-xu Christ một cách cá nhân chưa, anh ta thành thật trả lời: “Tôi vẫn chưa vượt qua được ranh giới của ước muốn và quyết định."
Có thể giải thích toàn bộ vấn đề cách rõ ràng hơn. Nhiều người cũng ở trong tình huống như vậy - vẫn còn ở bên ngoài dù nơi sâu thẳm trong lòng rất muốn vào trong. Tin mừng là ngày hôm đó anh ấy đã quyết định cầu nguyện trực tiếp với Đức Chúa Trời "trong danh Chúa Giê-xu" theo như cách anh diễn tả. Đây là điều trước giờ anh chưa hề làm.
Anh cầu nguyện như sau:
Trước hết, con biết con cần Ngài, Chúa ơi, trong cuộc sống của con. Tội lỗi của con nhiều lắm và con cần được tha thứ.
Thứ hai, con cầu xin Ngài, Chúa ơi, qua Chúa Giê-xu, xin hướng dẫn cuộc đời con, làm cho nó mới lại và dẫn dắt con trong mọi quyết định con chọn.
Sau đó anh dốc đổ một số những trận chiến bên trong con người anh, tất cả với một hy vọng về sự tự do. Cuối lời cầu nguyện, anh thì thầm với Chúa: "Cảm tạ Ngài."
Anh ấy đã đi qua cánh cửa, và Chúa Giê-xu Christ đang đợi anh. Kỳ diệu là Ngài cũng đang đợi mỗi người chúng ta.
Đọc thêm
Farmer, Herbert H. The Psychological Theory of Religion, in Towards Belief in God, New York: Macmillan, 1978.
Rowe, William L. Freud and Religious Belief, in Philosophy of Religion: An Introduction. Belmont, Calif.: Wadsworth, 1978.
Schaeffer, Francis A. The God Who Is There. 30th anniv. ed Downers Grove, Ill.: InterVarsity Press, 1999.
Theo Vì sao chúng ta tin?
Đọc thêm!
Tiền đề đứng sau khái niệm trên cho rằng lý trí có khả năng lý luận vô hạn. Người ta cho rằng niềm tin vào Đức Chúa Trời chỉ là việc thực hiện điều mình muốn. Đối với những người trưởng thành thì đó là thái độ muốn lui về tình trạng ta cần có hình ảnh một người cha.
Dù được diễn đạt ra hay không, lời quyết đoán đều ngụ ý rằng Cơ Đốc giáo chỉ dành cho những người què quặt về tình cảm nếu không có cây nạng ấy họ không thể tiếp tục cuộc sống được.
Nhiều người cho rằng sự cải đạo Cơ Đốc chỉ là một kinh nghiệm tâm lý, hậu quả của một cuộc tẩy não. Nhà truyền giảng là một bậc thầy trong nghệ thuật nhồi sọ. Sau khi đã nhồi đám cử tọa rồi thì ông thấy họ thật mềm dẻo trong tay ông. Ông có thể bảo họ làm bất cứ việc gì nếu biết đòi hỏi họ quyết định đúng lúc và đúng cách.
Có người còn đi xa hơn. Họ cho rằng kinh nghiệm của Cơ Đốc nhân đôi khi vô cùng tai hại. Nhiều sinh viên đã bị cha mẹ không tin Chúa giao cho bác sĩ chữa bệnh tâm thần sau khi họ tự nguyện tin Chúa. "Cứ nhìn bọn điên đạo trong các dưỡng trí viện thì biết. Chính tôn giáo của họ đã đưa họ vào đó. "Những người cảm thấy như vậy đều sa vào "yếu tố sai lầm chung” được Anthony Staden vạch rõ. Ông kể rằng có một người kia cứ mỗi thứ hai thì uống whisky pha nước soda; mỗi thứ ba thì uống brandy pha với nước soda và mỗi thứ tư thì gin pha với nước soda. Thế thì cái gì khiến ông ta nghiện rượu như thế? Rõ ràng là yếu tố chung, tức là nước soda! 1
Trạm cuối cùng trên chuyến xe lửa
Nhiều người xem giáo hội giống như là trạm cuối trên chuyến xe lửa trước khi mất khả năng tự lực. Tuy nhiên nếu khảo sát thật kỹ một người loạn óc sẽ thấy rằng họ mất thăng bằng và mất ý thức về nhiều lãnh vực khác chứ không chỉ trong sinh hoạt tôn giáo mà thôi. Phải nhìn nhận rằng giáo hội đã sẵn sàng giúp đỡ mọi người bất chấp hoàn cảnh của họ thế nào. Chắc chắn vài rối loạn về cảm xúc có thể có nguồn gốc từ tâm linh. Dù chúng ta phải đối diện với nhiều thử thách, nhưng khi tái lập mối quan hệ với Đức Chúa Trời qua Chúa Giê-xu Christ thì chúng ta sẽ được giải thoát và chữa lành.
Ở một vài nơi, thành kiến về giá trị của kinh nghiệm của Cơ Đốc nhân nặng nề đến nỗi họ từ chối cấp bằng đại học cho những sinh viên Cơ Đốc. Một người bạn của tôi, theo học một trong những trường đại học rất nổi tiếng, bị từ chối cấp bằng tiến sĩ trong ngành khoa học xã hội. Người ta bảo rằng: “Vì anh tin Đức Chúa Trời nên theo định nghĩa anh là một tên khùng."
Vài người theo chủ nghĩa hoài nghi bảo rằng tất cả những kinh nghiệm của Cơ Đốc nhân có thể được giải thích căn cứ vào những phản xạ có điều kiện. Tư tưởng này bắt nguồn từ các thí nghiệm của nhà bác học lừng danh người Nga là Pavlov. Ông ta tìm cách đặt những dụng cụ đo lường vào miệng và bao tử một con chó để xác định việc sản xuất dịch vị. Rồi ông đem thức ăn đến cho con chó, đồng thời rung chuông lên. Sau khi lặp đi lặp lại việc ấy nhiều lần, Pavlov chỉ rung chuông mà không cần đem thức ăn đến con chó vẫn chảy nước miếng như thường. Kết luận rút ra từ những thí nghiệm đó là do những lần lặp đi lặp lại đúng điều kiện như trên, tâm trí có thể bị sai khiến để sẵn sàng tạo ra các phản ứng ta muốn. Người chủ xướng quan niệm nầy cho rằng căn cứ vào thí nghiệm trên đây chúng ta có thể giải thích tất cả những thay đổi về mặt chính trị, xã hội và tôn giáo. Trên đây là những lời đả kích nghiêm trọng, có ảnh hưởng sâu xa và một vài luận cứ xem ra cũng có vẻ có lý.
Kinh nghiệm Cơ Đốc nhân có giá trị không?
Ngay từ đầu, trong một số trường hợp, chúng ta phải nhìn nhận khả năng có thể khuấy động cảm xúc con người. Và chúng ta phải nhận rằng một vài người dạy dỗ hay giảng đạo vô tình hay hữu ý kích thích cảm xúc thính giả của họ bằng những câu chuyện hù dọa, những màn trình diễn điệu bộ và những phương pháp khác.
Trong câu chuyện về người gieo giống, Chúa Giê-xu cũng đã ngụ ý cảnh cáo về việc chỉ khuấy động cảm xúc mà thôi. Ngài mô tả về loại người nghe đạo và thích sứ điệp Tin Lành cũng giống như hạt giống rơi nhằm nơi sỏi đá. Lúc đầu người ấy nhận sứ điệp với sự vui mừng nhưng rễ không bao giờ đâm sâu được. Người nghe chịu đựng được một thời gian, nhưng khi khó khăn ập đến thì không có một niềm tin rõ ràng nào. Họ quay đi và ngã quị dọc đường.
Điều nầy cho thấy rằng khi chúng ta nghe về Đức Chúa Trời và Chúa Giê-xu Christ, cảm xúc của chúng ta có thể bị lay động. Nếu và khi thời điểm khó khăn xảy đến, thì cặp kiếng hồng rơi mất. Chúng ta khám phá ra rằng cuộc sống nhìn chung là giải quyết vấn đề. Và "không phải ngày nào cũng là ngày may mắn" như lời Max Lucado. Cảm xúc thì giao động và thậm chí có thể thay đổi theo thời tiết, nhưng chân lý Cơ Đốc không dựa vào cảm xúc dâng trào, đó là một tin mừng. Trong thời điểm nghi ngờ, nó giúp ích cho việc xem xét các sự kiện, và chúng ta tìm thấy kết quả nơi một niềm tin sâu sắc hơn nữa.
Vấn đề của ý chí
Orville S. Walters, một nhà tâm lý học Cơ Đốc đã chỉ ra rằng ý chí giống như chiếc xe có hai con ngựa kéo - tình cảm và trí óc. Với một số người thì ý chí (cái xe kéo) phản ứng nhanh hơn thông qua tình cảm. Với một số người khác thì ý chí (cái xe kéo) đạt được thông qua trí óc. Nhưng trong mỗi trường hợp một đức tin chân thành liên quan đến quyết định của ý chí. 2
Chúng ta phải nhìn nhận rằng tiềm năng của những phản ứng tình cảm chóng qua, nhưng chúng ta không thể giải thích tất cả kinh nghiệm Cơ Đốc nhân dựa trên nền tảng tâm lý. Nó không thích hợp với những sự kiện. Chúng ta làm tốt trong việc quan sát một nguyên tắc áp dụng ở đây cũng như trong những lãnh vực khác: mô tả một việc không giống với việc giải thích việc đó. Dĩ nhiên, kinh nghiệm của Cơ Đốc nhân có thể được mô tả theo cách tâm lý học nhưng điều này không thể giải thích tại sao nó xảy ra và cũng không phủ nhận tính thực tế của nó.
Chúng ta đã mô tả tính thực tế của tình yêu thật của Đức Chúa Trời đối với chúng ta, không phải do công trạng của chúng ta và chúng ta không xứng đáng được nhận. Kinh nghiệm về một sự bảo đảm và chấp nhận có thể đem lại niềm vui và sự thỏa lòng từ bên trong. Một tác giả đã nói: “Khá nếm thử xem Đức Giê-hô-va tốt lành dường bao" (Thi Tv 34:8). Hãy tự kiểm chứng lấy phần giả thuyết về Chúa Giê-xu là Con hằng sống của Đức Chúa Trời trong phòng thí nghiệm của cuộc sống mình. Cùng với chân lý về sự mạc khải khách quan của Đức Chúa Trời, kinh nghiệm cá nhân của Cơ Đốc nhân bảo đảm với chúng ta về tính đáng tin cậy của sứ điệp.
Một phản xạ có điều kiện?
Những điều nào phản đối ý kiến cho rằng kinh nghiệm của Cơ Đốc nhân chỉ là một phản xạ có điều kiện?
Trước hết, việc so sánh giữa người và động vật có thích đáng không? Con người thì có lý trí và khả năng phê bình, và năng lực tự phân tích, tự xét mình và tự phê bình mình khiến con người khác với động vật. Câu trả lời của D. Martyn Lloyd-Johnes đối với cuốn sách có sức thuyết phục Chiến Trường Tâm Trí (Battle for the Mind), qua nhân vật William Sargant, gây rất nhiều ảnh hưởng là: "Nói một cách khác, sự so sánh chỉ có giá trị trong một thời điểm nhất định (như thời chiến) khi những đặc điểm của con người hoàn toàn bị loại khỏi hành động, và con người vì quá khủng hoảng, lúc ấy đã bị đẩy xuống một cấp bậc ngang hàng với động vật." 3
Thứ hai, nếu chúng ta chỉ là những đối tượng của những phản xạ có điều kiện thì điều này cũng phải giải thích cho những hành động của những người anh hùng vĩ đại và những sự hy sinh mà con người vẫn lấy làm hãnh diện. Những hành động như vậy cũng không mang ý nghĩa gì khác hơn là những phản ứng đối với những kích thích đạt đến một mức độ nào đó. Nếu rút ra một kết luận hợp lý, thì một quan điểm tất định về hành vi của con người sẽ loại bỏ mọi trách nhiệm đạo đức - điều gì sắp xảy ra thì sẽ xảy ra và tôi không thể thay đổi nó được. Hay những gì xảy ra "không phải là lỗi của tôi; chỉ là do gien di truyền của tôi mà thôi." Những ai theo quan điểm tất định về phương diện triết học có khuynh hướng phủ nhận vị trí thú vị này trong những thói quen sinh hoạt hằng ngày. Cũng giống như bất cứ người nào khác, họ muốn kẻ trộm bị bắt ngay nếu họ là người bị trộm.
Phản xạ có điều kiện không giải thích được về số lượng lớn những người làm chứng về những kinh nghiệm không thể phủ nhận được của Cơ Đốc nhân. Vì hàng ngàn người được nuôi dưỡng trong gia đình Cơ Đốc chẳng may lại chẳng bao giờ trở thành những Cơ Đốc nhân. Hàng ngàn người khác không hề có bối cảnh gia đình hay tri thức về đức tin đã trở thành những Cơ Đốc nhân. Tôi được biết có những người trở thành Cơ Đốc nhân ngay lần đầu tiên họ được nghe về câu chuyện Đức Chúa Trời cứu chuộc con người. Ngược lại, những người khác đã nghiên cứu những bằng cớ lặp lại nhiều lần trước khi quyết định tin Đấng Christ.
Những người trước kia hoặc ở trong bối cảnh tôn giáo khác hoặc chưa có tôn giáo nào khi đã trở thành những Cơ Đốc nhân họ đều làm chứng một cách thống nhất về một sự xác tín cá nhân từ bên trong. Sự kết ước hết lòng với Đấng Christ đem lại một kinh nghiệm khách quan và chắc chắn. Đời sống họ thay đổi cách hiển nhiên thì không phải là một điều giả dối cũng không phải là điều phi thường. Chúng ta có thể nghe hoặc đọc về hàng ngàn câu chuyện như thế.
Không thể kiếm được những kết quả như vậy bằng sự suy nghĩ tích cực từ một cái đèn bàn. Một "đối tượng tích cực" thì là điều cần thiết và cụ thể hơn cái đèn bàn gấp ngàn lần! Chỉ có những suy nghĩ tích cực thôi thì khác xa với niềm tin vào một Đấng sáng tạo hằng sống luôn chăm sóc cho chúng ta. Tôi rất cảm tạ Chúa vì người sinh viên luật khoa đã đề cập trên đây đã phó thác đời sống mình cho Đấng Christ sau một tuần lễ nghe thuyết trình.
Nạn nhân của tự kỷ ám thị (Autohypnosis)?
Nhưng làm sao chúng ta là tín hữu Cơ Đốc giáo biết được mình có phải là những nạn nhân của sự tự kỷ ám thị không? Làm sao chúng ta biết mình không huýt gió trong bóng tối để tăng thêm can đảm? Nhiều người tự xưng là đã kinh nghiệm một hiện thực nào đó nhưng chúng ta vẫn có quyền thắc mắc. Một lần nữa, phải có điều gì hơn những kinh nghiệm để làm nền tảng cho niềm tin của mình, nếu không thì chúng ta có thể gặp rắc rối.
Chẳng hạn, có một người bước vào cửa nhà thờ giắt trên vành tai trái của mình một cái trứng chiên. Ông nói với sự phấn khởi: “Ồ, cái trứng này thật sự đem lại cho tôi niềm vui, sự bình an, mục đích trong cuộc sống, sự tha thứ tội lỗi và sức mạnh để sống!" Bạn sẽ nói gì với ông ấy? Bạn không thể nói rằng ông ta không kinh nghiệm những điều này. Một trong những ưu thế của lời chứng cá nhân là không ai có thể cãi lại được gì cả. Người mù được Chúa Giê-xu chữa lành không thể trả lời nhiều câu hỏi được đặt ra cho anh ta nhưng anh ta biết chắc chắn sự kiện là bây giờ anh ta được sáng mắt (xem GiGa 9:1-41). Như thế, lời làm chứng của anh trở thành hùng biện, có sức mạnh thuyết phục.
Nhưng chúng ta có thể đặt nhiều câu hỏi cho người bạn với cái trứng chiên. Đây cũng là những câu hỏi một Cơ Đốc nhân phải chuẩn bị để trả lời.
Trước hết, có ai khác nữa có cùng một kinh nghiệm như vậy với cái trứng chiên không? Chắc ông bạn của chúng ta khó kiếm ra được nhiều người khác có cùng một kinh nghiệm như vậy. Vài năm trước đây, cố mục sư Harry Ironside đang giảng đạo thì có một người muốn chất vấn la lớn: “Chủ nghĩa vô thần còn làm được nhiều điều cho thế giới hơn là Cơ Đốc giáo!"
Ironside nói: “Tốt lắm, vậy tối mai mời ông đưa đến đây một trăm người đã được chủ nghĩa vô thần biến đổi để trở thành những người tốt, và tôi sẽ đem đến một trăm người đã được Đấng Christ thay đổi đời sống."
Khỏi phải nói, người bạn chất vấn đó không hề xuất hiện vào buổi tối hôm sau. Đối với Cơ Đốc giáo luôn luôn có vô số những người từ mọi chủng tộc, mọi quốc gia và mọi giai cấp luôn sẵn sàng làm chứng về kinh nghiệm của mình nhờ Chúa Giê-xu Christ mà có.
Thứ hai, chúng ta có thể hỏi người bạn có cái trứng chiên là: Có thực tại khách quan nào bên ngoài anh ta được gắn liền với kinh nghiệm chủ quan nội tại ấy không? Làm sao anh ta biết được rằng mình không phải là nạn nhân của sự tự kỷ ám thị? Dĩ nhiên là anh ta sẽ chẳng có gì để nói cả. Đối với Cơ Đốc giáo, kinh nghiệm chủ quan của cá nhân chúng ta được gắn liền với sự kiện lịch sử khách quan về sự phục sinh của Đấng Christ. Nếu Đấng Christ không từ cõi chết sống lại, chúng ta sẽ chẳng bao giờ kinh nghiệm được gì về Ngài. Chính vì Ngài đã từ cõi chết sống lại và hiện nay vẫn sống nên chúng ta mới thật sự biết Ngài.
Sự kiện lịch sử khách quan
Kinh nghiệm của Cơ Đốc nhân không thể xuất phát từ niềm tin vào những điều không có thật. Nó không giống như một cậu bé trong nhóm học sinh đã chết vì quá sợ hãi, trong trò chơi hù dọa ban đêm, khi cậu bị cột vào đường rầy xe lửa. Người ta nói với cậu rằng chừng năm phút nữa sẽ có một chuyến tàu lửa chạy đến nhưng không nói cho cậu biết là xe lửa sẽ chạy qua đường rầy song song gần đó. Cậu ta tưởng chỉ có một đường rầy duy nhất mà thôi. Khi cậu ta nghe tiếng con tàu đến gần thì đứng tim chết. Với Cơ Đốc giáo thì sẽ không có gì xảy ra nếu không có ai kinh nghiệm “không có ai ngoài đó cả."
Vì Đấng Christ thật sự ở đó, nên chúng ta có thể nhận thức được sự sống của Ngài hoạt động bên trong chúng ta. Nếu chúng ta nói rằng: “Tôi biết Đức Chúa Giê-xu Christ đã tha thứ tôi", đó mới là một nửa câu chuyện. Còn một nửa khác rất quan trọng ấy là chúng ta phải biết Ngài đang sống vì trong lịch sử Ngài đã từ chết sống lại. Kinh nghiệm cá nhân chủ quan của chúng ta được căn cứ trên một sự kiện lịch sử khách quan.
Khi nhận xét về sự thật mà những người đau khổ nói rằng họ bị một sức mạnh từ bên ngoài lôi kéo mình, J. B. Phillips nói:
Tôi biết rõ là mình đang mô tả một hiện tượng chủ quan mà thôi. Nhưng sự thật là khi tôi quan sát các hậu quả trong những hiện tượng khách quan, chẳng hạn sự can đảm, đức tin, hy vọng, vui mừng, sự kiên nhẫn, và những phẩm chất này có sẵn để quan sát. Người muốn chứng minh mọi thứ theo phương cách khoa học đã hoàn toàn có lý trong việc cố nài "những điều kiện của phòng thí nghiệm" nếu anh ta đang nghiên cứu, liệu chúng ta có thể nói rằng anh ta đang đoán trong nước (water-divining), có khả năng nhìn thấu được (clairvoyance) hoặc thần giao cách cảm (telekinesis) chăng.
Nhưng không thể nào có những thứ gọi là "điều kiện của phòng thí nghiệm" cho việc nghiên cứu lãnh vực tâm linh của con người trừ khi người ta nhìn nhận rằng "những điều kiện thí nghiệm" chẳng qua là chính cuộc sống con người. Con người chỉ có thể bộc lộ một cách khách quan sự thay đổi tâm tính, một đức tin hướng dẫn đời sống ngay trong cuộc sống thực tế mà thôi. 4
Giàu hay nghèo, địa vị cao hay thấp, nhu cầu của chúng ta đều giống nhau. Ravi Zacharias kể về cuộc phỏng vấn của David Frost với nhà tỉ phủ Ted Turner. Khi có người bất ngờ hỏi ông về điều ông hối tiếc trong cuộc đời mình, thì thái độ buồn bã hiện lên trên nét mặt Turner. Ông buồn bã trả lời: “Vâng, tôi đã đối xử với người vợ đầu tiên của tôi tệ bạc quá." 5
Chính trong những kết quả khách quan này chúng ta nhìn thấy một số sự đáp ứng năng động của Đấng Christ trong cuộc sống cá nhân mình. Ngài đáp ứng nhu cầu sâu xa nhất của chúng ta.
Mục đích và hướng dẫn
Đấng Christ hướng dẫn và ban cho chúng ta một đời sống có chủ đích. Ngài phán: “Ta là sự sáng của thế gian; người nào theo ta chẳng đi trong nơi tối tăm nhưng có ánh sáng của sự sống" (GiGa 8:12). Nhiều người đang ở trong bóng tối, không biết gì về mục đích của cuộc sống nói chung và cuộc sống của cá nhân họ nói riêng. Họ đang quờ quạng trong căn phòng cuộc sống để tìm cái công tắc đèn. Người nào đã từng ở trong một căn phòng tối và xa lạ đều biết cái cảm giác bất an này. Tuy nhiên khi đèn được bật lên thì cảm giác an toàn trở lại. Khi chúng ta bước từ bóng tối qua ánh sáng của cuộc sống trong Đấng Christ thì cũng vậy.
Trong Đấng Christ, Đức Chúa Trời ban cho cuộc sống chúng ta một mục đích vĩ đại, gắn chặt chúng ta với mục đích của Ngài cho lịch sử và cõi vĩnh hằng. Một Cơ Đốc nhân sống không chỉ cho hiện tại, nhưng cho cõi đời đời nữa. Thậm chí nếp sống hằng ngày của chúng ta cũng được biến đổi khi chúng ta sống trọn cuộc đời mình trong mục đích của Đức Chúa Trời và vâng theo lời khuyên: “Vậy anh em hoặc ăn hoặc uống hay là làm sự chi khác, hãy vì sự vinh hiển Đức Chúa Trời mà làm" (ICo1Cr 10:31). Mục đích này bao trùm tất cả mọi khía cạnh trong cuộc sống của chúng ta. Nó cũng là mục đích vô tận và vĩnh cửu. Dĩ nhiên những người chưa tin Chúa cũng có những mục đích tạm thời như gia đình, sự nghiệp và tiền bạc vốn đem lại sự thỏa mãn giới hạn. Nhưng dầu có tốt đẹp đến đâu đi nữa, những điều đó chỉ là tạm bợ và có thể tiêu tan theo sự thay đổi của hoàn cảnh.
Trong thời đại mà cuộc sống đã bị các triết gia hiện sinh mô tả là vô nghĩa và phi lý, thì không có điều gì mạnh mẽ và có ý nghĩa hơn là lời tuyên bố có thể kiểm chứng được của Đấng Christ.
Chúng ta được tạo dựng cho Đức Chúa Trời
Carl Gustav Jung có nói: “Nguyên nhân chính của các chứng bệnh thần kinh trong thời đại chúng ta là sự trống rỗng." Khi chưa có tiền tài, danh vọng, thành công, quyền lực và những điều bên ngoài khác, chúng ta tưởng là mình sẽ hoàn toàn hạnh phúc sau khi đạt được những điều đó. Nhiều người làm chứng lại những kinh nghiệm vỡ mộng khi đạt được những điều này và nhận thức ra rằng mình vẫn là con người khốn khổ như cũ. Tâm linh con người không thể được thỏa mãn "chỉ nhờ bánh mà thôi", nghĩa là nhờ những vật chất. Chúng ta đã được tạo dựng cho Đức Chúa Trời và chúng ta chỉ tìm được sự yên nghỉ trong Ngài.
Một chiếc xe hơi, dù có bóng loáng đến đâu, động cơ mạnh mẽ đến đâu, trang bị đầy đủ đến đâu cũng không thể chạy bằng nước được. Nó được chế tạo để chạy bằng dầu xăng thôi. Cũng vậy con người chỉ có thể tìm thấy sự trọn vẹn trong Đức Chúa Trời. Chính Đức Chúa Trời đã tạo dựng con người chúng ta như thế. Kinh nghiệm về Đấng Christ sẽ làm thỏa mãn người đó nhờ mối quan hệ cá nhân với Đấng Christ. Ngài phán: “Ta là bánh của sự sống; ai đến cùng ta chẳng hề đói, và ai tin ta chẳng hề khát" (GiGa 6:35). Khi một người kinh nghiệm Đấng Christ, người đó nhận được sự thỏa lòng, niềm vui và sự tươi mới thuộc linh từ bên trong khiến họ có thể sống vượt trên hoàn cảnh. Chính là thực tế này đã khiến sứ đồ Phao-lô nói: “Vì tôi đã tập hễ gặp cảnh ngộ nào cũng thỏa lòng ở vậy" (Phi Pl 4:11). Thực tại siêu nhiên này giúp cho Cơ Đốc nhân vui mừng giữa những hoàn cảnh khó khăn.
Lòng mong ước của chúng ta là được bình an
"Hòa bình trong thời đại của chúng ta" diễn tả một niềm khao khát bên trong mỗi người chúng ta khi những sự lựa chọn hằng ngày nhìn thẳng vào mặt chúng ta. Bên ngoài chúng ta hy vọng rằng những cuộc chiến nhỏ sẽ không bùng nổ thành những xung đột rộng lớn hơn trên bình diện quốc tế.
Hòa bình là điều tấm lòng mọi người mong mỏi. Nếu mua được nó, người ta dám bỏ ra bạc triệu. Khối lượng sách bàn về sự bình an của lý trí và tâm hồn bán rất chạy, chứng tỏ rằng chúng đã đụng tới chiều sâu nội tâm của cuộc sống của hàng triệu người. Còn văn phòng của những nhà tư vấn tâm lý thì chật cứng.
Chúa Giê-xu phán: “Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ " (Mat Mt 11:28). Chỉ một mình Đấng Christ mới ban sự bình an vượt quá trí hiểu, sự bình an mà thế gian không thể đem lại, cũng không thể cướp đi được. Rất cảm động khi được nghe những câu chuyện có thật về cuộc đời của những người đã không ngừng tìm kiếm trong một thời gian dài và cuối cùng đã tìm thấy sự bình an trong Đấng Christ. Gần đây những mối quan hệ gãy đổ, gia đình chia cắt và những thói quen lén lút càng ngày càng gia tăng khiến chúng ta khó lòng tìm kiếm sự bình an trong thời đại nầy. Người ta không ngại thử bất kỳ loại nghiện ngập nào, tội lỗi công khai hay những sự ghen ghét và ganh tị giấu kín với hy vọng viễn vông là sẽ tìm được sự bình an. Chỉ có một nơi đáng tin cậy và sẵn sàng ban sự bình an. Sự bình an thật sự và lâu dài xuất phát từ chính Đấng Christ mà thôi “Ngài là sự bình an của chúng ta" (Eph Ep 2:14).
Năng lực căn bản cần thiết
Xã hội ngày nay đang trải qua một tình trạng mất năng lực rất sâu xa, tức là sự thất bại về năng lực đạo đức. Những bậc cha mẹ biết rõ họ và con cái họ phải làm điều gì đúng, nhưng vì thiếu cương quyết, họ thấy rằng cứ xuôi theo đám đông thì dễ hơn. Con cái họ liền lợi dụng ngay thái độ đó. Kết quả là kiến trúc đạo đức của xã hội bị suy sụp đổ vỡ nhanh chóng. Đưa ra những lời khuyên tốt đẹp phải lẽ cho người già hay thanh niên chẳng khác gì bôi thuốc sát trùng loại nhẹ bên ngoài vết ung thư. Điều cần thiết phải có là một năng lực cơ bản.
Cơ Đốc giáo không mặc cho con người một bộ đồ mới, nhưng mặc một người mới vào trong bộ đồ. Chúa Giê-xu nói rằng: “Ta đã đến hầu cho chiên được sống, và được sự sống dư dật." (GiGa 10:10).Chúa Giê-xu ban cho chúng ta năng lực của Ngài. Năng lực nầy không những có thể giải thoát con người khỏi bất cứ xiềng xích trói buộc nào nhưng còn có thể tha thứ những ai làm lỗi với chúng ta, yêu những người không đáng yêu và chống lại cám dỗ muốn trả đũa. Người được tái sanh có những khẩu vị mới, khao khát mới, tình yêu mới. Thật sự, họ là "những tạo vật mới" (IICo 2Cr 5:17). Một lần nữa, người mới tiếp nhận Chúa trong thực tế đã bước ra khỏi sự chết để vào sự sống thuộc linh.
Vấn đề tội lỗi và sự cô đơn được giải quyết
Kinh nghiệm của Cơ Đốc nhân giải quyết vấn đề tội lỗi. Con người bình thường nào cũng cảm thấy tội lỗi. Mặc cảm tội lỗi là một cảm giác rất vô lý mà thực tế không có căn bản nào. Nhưng cảm biết mình phạm tội sau khi làm sai hay phạm một luật đạo đức nội tại là điều bình thường. Còn không cảm thấy mình có tội mới là bất thường. Một người vẫn dửng dưng sau khi cố ý giết người hay gây thương tích cho một người vô tội mới là bất thường. Ta không thể nào dùng lý luận để hợp lý hóa việc phạm tội được. Trong Đấng Christ có một nền tảng khách quan cho sự tha tội. Đấng Christ đã chết cho tội lỗi của chúng ta; án tử hình vốn dành cho chúng ta đã được Ngài chịu thay. "Cho nên, hiện nay chẳng còn có sự đoán phạt nào cho những kẻ ở trong Đức Chúa Giê-xu Christ" (RoRm 8:1). Sự tha tội cho từng cá nhân một là điều có thật. Cơ Đốc giáo giải quyết sự cô đơn của chúng ta, đây là cảm giác rất điển hình trong xã hội hiện đại. Điều khá mỉa mai là trong giai đoạn bùng nổ dân số thì lại có nhiều người cô đơn hơn. Đấng Christ là người chăn hiền lành (GiGa 10:14), Đấng sẽ không bao giờ lìa xa hay bỏ rơi chúng ta. Và Ngài sẽ đưa chúng ta vào trong một đại gia đình gồm cả thế giới bao la đầy những con người biết quan tâm.
Tái sinh đem lại cuộc sống mới
Cuối cùng, sau khi biết được giá trị của những kinh nghiệm của Cơ Đốc nhân, chúng ta nên nhận thức rằng sự mô tả tâm lý học về điều này cũng có giá trị trong phạm vi của nó. Nhưng nó chỉ là sự mô tả, không phải là nguyên nhân. Một người trở lại tin nhận Chúa Giê-xu Christ và đặt cuộc sống của họ vào trong tay của Chúa Giê-xu thì được "tái sinh" hay "sinh ra từ Đức Chúa Trời", có thần linh của Đức Chúa Trời, có một đời sống thuộc linh mới bên trong. Cuộc sống mới này giống như sự ra đời tự nhiên của một em bé, nó phải học những cái mới và làm những cái mới. Có vô số những câu mô tả sự "tái sanh" trong Tân Ước.
-"Ai tin Đức Chúa Giê-xu là Đấng Christ thì sanh bởi Đức Chúa Trời" (IGi1Ga 5:1).
- "Anh em đã được lại sanh, chẳng phải bởi giống hay hư nát, nhưng bởi giống chẳng hư nát, là bởi lời hằng sống và bền vững của Đức Chúa Trời." (IPhi 1Pr 1:23).
- "Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ thì nấy là người dựng nên mới." (IICo 2Cr 5:17).
Bước kế tiếp là khẳng định vị trí của chính mình với Đức Chúa Trời, Đấng sáng tạo diệu kỳ của chúng ta, và mối thông công cá nhân của bạn với Ngài. Bạn có thể đã thiết lập mối liên hệ với Ngài và chấp nhận lời mời gọi bước vào "đời sống mới". Hay bạn cần phải bước một bước kế tiếp, quyết định hành động và tìm kiếm Ngài một cách cá nhân. Chúa Giê-xu tóm tắt sự giáng thế của Ngài: “Ta là cái cửa (giống như cửa trại cừu). Nếu ai bởi Ta mà vào thì sẽ được cứu rỗi (tái sanh)" (GiGa 10:9).
Bạn đã tin Đức Chúa Giê-xu Christ một cách cá nhân hay bạn còn đang lưỡng lự?
Có một thanh niên đến nhà chúng tôi và hỏi tôi một số câu hỏi lý luận hóc búa đã chi phối anh ta về Đức Chúa Trời và niềm tin Cơ Đốc. Chúng tôi nói chuyện một lúc lâu, khi tôi hỏi anh ta đã dâng trọn vẹn đời sống và tin vào Chúa Giê-xu Christ một cách cá nhân chưa, anh ta thành thật trả lời: “Tôi vẫn chưa vượt qua được ranh giới của ước muốn và quyết định."
Có thể giải thích toàn bộ vấn đề cách rõ ràng hơn. Nhiều người cũng ở trong tình huống như vậy - vẫn còn ở bên ngoài dù nơi sâu thẳm trong lòng rất muốn vào trong. Tin mừng là ngày hôm đó anh ấy đã quyết định cầu nguyện trực tiếp với Đức Chúa Trời "trong danh Chúa Giê-xu" theo như cách anh diễn tả. Đây là điều trước giờ anh chưa hề làm.
Anh cầu nguyện như sau:
Trước hết, con biết con cần Ngài, Chúa ơi, trong cuộc sống của con. Tội lỗi của con nhiều lắm và con cần được tha thứ.
Thứ hai, con cầu xin Ngài, Chúa ơi, qua Chúa Giê-xu, xin hướng dẫn cuộc đời con, làm cho nó mới lại và dẫn dắt con trong mọi quyết định con chọn.
Sau đó anh dốc đổ một số những trận chiến bên trong con người anh, tất cả với một hy vọng về sự tự do. Cuối lời cầu nguyện, anh thì thầm với Chúa: "Cảm tạ Ngài."
Anh ấy đã đi qua cánh cửa, và Chúa Giê-xu Christ đang đợi anh. Kỳ diệu là Ngài cũng đang đợi mỗi người chúng ta.
Đọc thêm
Farmer, Herbert H. The Psychological Theory of Religion, in Towards Belief in God, New York: Macmillan, 1978.
Rowe, William L. Freud and Religious Belief, in Philosophy of Religion: An Introduction. Belmont, Calif.: Wadsworth, 1978.
Schaeffer, Francis A. The God Who Is There. 30th anniv. ed Downers Grove, Ill.: InterVarsity Press, 1999.
Theo Vì sao chúng ta tin?
Đọc thêm!
Thứ Ba, 7 tháng 7, 2009
Có Phải Đấng Christ Là Đức Chúa Trời Không?
Nếu Đức Chúa Trời không chủ động và bày tỏ chính Ngài thì chúng ta không thể biết được một cách chắc chắn là Ngài có hiện hữu không và Ngài ra làm sao. Nếu không có sự chủ động và sự tự mặc khải của Ngài chúng ta mắc kẹt trong sự phỏng đoán, những định kiến và những ý kiến không bao giờ được sáng tỏ. Chúng ta có quyền được thắc mắc Ngài như thế nào và thái độ của Ngài đối với chúng ta ra sao. Nếu chúng ta biết chắc chắn về sự hiện hữu của Ngài nhưng biết Ngài giống như Adolf Hitler, nghĩa là hay thay đổi ý kiến, nhiều tánh xấu, nhiều thành kiến và rất tàn bạo, thì khủng khiếp biết bao!
Nhìn lướt qua chân trời của lịch sử chúng ta thấy có những manh mối chứng tỏ rằng Đức Chúa Trời tự bày tỏ chính Ngài. Có một sự việc nổi bật. Cách đây 2000 năm, tại một làng hẻo lánh thuộc xứ Palestine, một bé trai đã được sinh ra trong chuồng chiên. Sự ra đời của con trẻ đó đã khiến cho Hê-rốt, vị vua đang cai trị xứ ấy, khiếp sợ. Cố gắng tiêu diệt đứa trẻ được dự báo là sinh ra để “làm vua xứ Giu-đa”, vua Hế-rốt ra lệnh giết tất cả bé trai 2 tuổi trở xuống được sinh ra trong thành Bết-lê-hem. Ông hy vọng một cách vô ích rằng mình sẽ tiêu diệt được bất kỳ một địch thủ nào. Lịch sử gọi ông là “kẻ tàn sát những đứa trẻ vô tội” (Mat Mt 2:1-18).
Sự giáng sinh của Ngài chia đôi dòng thời gian. Cuộc đời của Con Trẻ này đã được định trước để thay đổi tiến trình của lịch sử. Hai ngàn năm trước, sự giáng thế của Ngài đã làm rung chuyển thế giới, thay đổi niên lịch và tập tục. Người theo thuyết vô thần ở Mỹ vẫn ghi ngày lên tờ ngân phiếu của họ với năm được tính từ ngày Chúa Giê-xu ra đời. Những người cai trị đất nước, ở phương Đông hay phương Tây, bất kể tôn giáo của họ là gì, đều dùng năm sinh gần đúng này của Ngài. Tự nhiên chúng ta tuyên bố sự giáng sinh của Ngài trên những bức thư, những giấy tờ hợp pháp, và những quyển lịch làm việc. Vào ngày chúng ta đặt ra để kỷ niệm ngày sinh của Ngài, thì khu đậu xe của phố thương mại hoàn toàn vắng hoe.
Cậu bé nầy, có ngày sinh mà chúng ta vẫn còn ăn mừng, cùng với cha mẹ sống ở thành Na-xa-rét, nơi Ngài học được nghề thợ mộc từ người cha trần gian của Ngài. Ngay từ đầu Ngài đã là một đứa trẻ khác thường. Năm được 12 tuổi, Ngài đã khiến các học giả và các giáo sư dạy đạo tại Giê-ru-sa-lem bối rối trước những câu hỏi của Ngài. Khi cha mẹ trách Ngài vì Ngài ở lại khi họ đã lên đường trở về, Ngài đáp lại bằng một câu trả lời rất khó hiểu: “Cha mẹ không biết tôi phải lo việc Cha tôi (Đức Chúa Trời) sao?” (LuLc 2:49). Câu trả lời của Ngài ngụ ý về mối quan hệ đặc biệt của Ngài với Đức Chúa Trời.
Chàng thanh niên này đã sống trong sự âm thầm cho đến khi được 30 tuổi, rồi bắt đầu chức vụ công khai suốt ba năm. Ngài là một người nhân hậu, và được truyền tụng là “giới bình dân vui vẻ nghe Ngài giảng dạy.” Khác với các giáo sư thời đó “Ngài giảng cách có quyền, chớ không phải như các thầy thông giáo và người Pha-ri-si” (Mat Mt 7:29).
Chúa Giê-xu tuyên bố Ngài là Con Đức Chúa Trời
Chẳng bao lâu người ta thấy rõ ràng là Ngài đã làm xáo trộn tất cả và tuyên bố nhiều câu về chính Ngài khiến mọi người đều kinh ngạc. Ngài bắt đầu tự xưng là một nhân vật lỗi lạc hơn một giáo sư hay một nhà tiên tri nữa. Ngài bắt đầu nói phán rõ ràng rằng Ngài là Đức Chúa Trời. Những lời giảng dạy của Ngài đều qui tụ vào điều Ngài đã tự xưng. Câu hỏi tối quan trọng Ngài đã nêu lên cho những người theo Ngài là: “Còn các ngươi thì xưng ta là ai?” Khi Phi-e-rơ thưa rằng: “Chúa là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời hằng sống” (16:15-16), thì Chúa Giê-xu đã không cho là lạ và cũng không quở trách Phi-e-rơ. Ngược lại, Ngài còn khen ông!
Chúa Giê-xu tuyên bố một cách dứt khoát rằng Ngài là Con của Đức Chúa Trời. Những người nghe Ngài đã bị lời giảng của Ngài công kích nặng nề. Chúng ta được biết rằng, dân Giu-đa càng kiếm cách nữa để giết Ngài, chẳng những vì Ngài phạm ngày Sa-bát thôi, mà lại vì Ngài gọi Đức Chúa Trời là Thân Phụ mình, tự cho mình bình đẳng với Đức Chúa Trời” (GiGa 5:18).
Vào một dịp khác, Ngài nói rằng: “Ta với Cha là một” (10:30). Dân Giu-đa lập tức muốn ném đá Ngài. Ngài hỏi họ muốn giết Ngài vì việc gì. Họ trả lời: “ Ấy chẳng phải vì một việc lành mà chúng ta ném đá người, nhưng vì lỗi lộng ngôn; ngươi là người mà tự xưng mình là Đức Chúa Trời” (10:33).
Chúa Giê-xu cũng tự xưng rõ ràng rằng Ngài có những thuộc tính mà chỉ có ở Đức Chúa Trời. Khi người bại liệt được giòng xuống từ mái nhà và đặt dưới chân Ngài, Ngài phán: “Hỡi con, tội lỗi con đã được tha” (Mac Mc 2:5). Việc này gây ra bất mãn lớn giữa vòng các thầy thông giáo. Họ nghĩ thầm “Sao tên này dám phạm thượng như vậy? Ngoài Đức Chúa Trời ra, đâu có ai tha tội được?” (2:7).
Chúa Giê-xu biết ý tưởng họ nên phán: “Bảo rằng, tội ngươi đã được tha, hay là bảo người rằng: Hãy đứng dậy, vác giường mà đi, hai điều ấy đều nào dễ hơn?” (2:8-9). Để hiệu quả hơn, Ngài trả lời câu hỏi bằng cách: “Vả hầu cho các người biết Con người ở thế gian có quyền tha tội (ý Ngài muốn nói rằng các ngươi bảo chỉ có Đức Chúa Trời mới có quyền tha tội là rất đúng, nhưng việc đó không ai thấy, bây giờ ta làm một việc mà các ngươi có thể thấy)” (2:10). Quay sang người bại, Ngài truyền lệnh: “Ta biểu ngươi, hãy đứng dậy, vác giường đi về nhà” (2:11). Người đàn ông đứng dậy và đi!
Tên gọi Con người là danh xưng Chúa Giê-xu dùng để nói về chính Ngài, nhưng đi kèm với những thuộc tính mà chỉ Đức Chúa Trời mới có. Trong lời nói liên quan đến việc Chúa Giê-xu đến thế gian, Ngài nói về chính mình như Con người đến để “ban sự sống của Ngài làm giá chuộc nhiều người.” Đây không phải là lời phủ nhận về thần tính theo bất kỳ nghĩa nào. Đúng hơn là danh xưng này bao gồm cả thần tính và sự giáng sinh của Ngài như một phần của nhân loại. Quyền phép, những phép lạ, những sự dạy dỗ và tính cách của Ngài, là những đặc điểm thật mà chỉ ở Đức Chúa Trời mới có.
Đến giờ quyết định, khi mạng sống của Ngài đang lâm nguy vì cớ những lời tự xưng đó, thầy cả thượng phẩm đặt câu hỏi với Ngài một cách trực tiếp:
“Ấy chính ngươi là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời đáng ngợi khen phải không?” Chúa Giê-xu đáp một cách bình thản: “Ta chính phải đó, các ngươi sẽ thấy Con người ngồi bên hữu quyền phép Đức Chúa Trời, và ngự giữa đám mây trên trời mà đến.” Bấy giờ thầy cả thượng phẩm xé áo mình ra mà phán rằng: “Chúng ta có cần kiếm chứng cớ khác nữa làm chi? Các ngươi có nghe lời lộng ngôn chăng?” (14:61-64).
John Stott tóm tắt lại như sau:
Mối liên hệ giữa Ngài với Đức Chúa Trời quá gần gũi nên tự nhiên Ngài xem thái độ của một người đối với Ngài là thái độ của người đó đối với Đức Chúa Trời. Cho nên:
Ai biết Ngài tức là biết Đức Chúa Trời
Ai thấy Ngài tức là thấy Đức Chúa Trời
Ai tin Ngài tức là tin Đức Chúa Trời
Ai tiếp nhận Ngài tức là tiếp nhận Đức Chúa Trời
Ai ghét Ngài tức là ghét Đức Chúa Trời
Ai tôn vinh Ngài tức là tôn vinh Đức Chúa Trời.
Chỉ có bốn trường hợp có thể xảy ra
Khi chúng ta đối diện với lời tự xưng về thần tính của Đấng Christ, chỉ có bốn khả năng. Ngài hoặc là một kẻ nói dối, một người điên, một nhân vật của truyền thuyết hoặc Ngài là Chân Lý. Nếu chúng ta nói Ngài không phải là Chân Lý, thì lẽ đương nhiên chúng ta đã nhận ba khả năng còn lại, dù chúng ta có ý thức như thế hay không. Xem xét những khả năng này rất ích lợi cho chúng ta.
Chúa Giê-xu có nói dối khi tự xưng Ngài là Đức Chúa Trời khi Ngài biết rằng Ngài không phải là Đức Chúa Trời không? Nếu như vậy, Ngài cố ý lừa dối những người nghe Ngài để mượn uy quyền của Đức Chúa Trời cho chính Ngài và cho lời giảng dạy của Ngài. Rất ít người hay hầu như không có ai giữ quan điểm này một cách nghiêm túc. Ngay cả những người chối bỏ thần tính của Ngài cũng khẳng định rằng Chúa Giê-xu là một giáo sư vĩ đại đầy đạo đức. Họ thất bại khi không nhận thấy rằng hai quan điểm này hoàn toàn trái ngược nhau. Chúa Giê-xu khó có thể là một giáo sư vĩ đại đầy đạo đức nếu ngay ở điểm chính yếu trong sự giảng dạy của Ngài - lai lịch của Ngài - Ngài lại là một kẻ nói dối có chủ ý.
Ngài có phải là một người điên không? Chấp nhận quan điểm này sẽ dẫn đến việc làm méo mó cho bằng cớ. Thật sự thì chẳng có bằng chứng nào ủng hộ quan điểm này. Trái lại, tất cả những bằng chứng đều hướng về phía ngược lại. Tuy có vẻ nhẹ hơn, nhưng cũng không kém phần kinh ngạc khi nói rằng Ngài chân thật nhưng tự lừa dối. Ngày nay một người nào đó tự xưng là mình Đức Chúa Trời hay là món khoai tây chiên thì sẽ bị coi là “kẻ điên”, và chúng ta sẽ giúp đỡ người ấy. Tuy nhiên từ ngữ nầy sẽ trở nên lố bịch nếu chúng ta áp dụng vào Đấng Christ.
Khi nhìn vào đời sống của Đấng Christ, chúng ta không thấy bằng chứng nào của sự dị thường và mất thăng bằng thường thấy trong những người loạn trí. Hơn thế nữa, chúng ta chỉ thấy một sự điềm tĩnh vô hạn dưới những áp lực của đối phương. Trước tòa công luận của Phi-lát, khi cuộc sống của Ngài đang lâm nguy, Ngài đã rất điềm tĩnh và thản nhiên. Như C. S. Lewis đã nói: “Lời giảng dạy sâu sắc và lành mạnh mang tính đạo đức của Ngài rõ ràng không phù hợp với một người được chuẩn đoán là mắc bệnh hoang tưởng” điều đó không thể nào hài hòa được.
2 .Có phải Ngài là một truyền thuyết không? Khả năng thứ ba là tất cả những gì những môn đệ nhiệt thành của Ngài thuật lại về lời tự xưng rằng Ngài là Đức Chúa Trời và năng lực siêu nhiên của Ngài là một truyền thuyết. Thậm chí có những lời đồn đại rằng lời tự xưng là Đức Chúa Trời, sự giảng dạy và những phép lạ của Ngài chỉ được thêm vào từ thế kỷ thứ ba hay thứ tư sau này. Họ đã đặt những lời vào miệng Ngài mà nếu chính Ngài được nghe cũng phải kinh ngạc. Nếu Ngài tái lâm, chắc sẽ phủ nhận chúng lập tức.
Thuyết truyền khẩu này đã bị bác bỏ do những khám phá của ngành khảo cổ học hiện đại qua ba yếu tố.
Bốn quyển sách tiểu sử của Đấng Christ (Ma-thi-ơ, Mác, Lu-ca, Giăng) được viết ra trong thời của những người sống đồng thời với Ngài đã được chứng minh chắc chắn.
Tiến sĩ William F. Albright, một nhà khảo cổ học nổi tiếng thế giới đã kết luận như vậy: “Không có lý do gì để tin rằng có quyển sách Phúc Âm nào được viết sau năm 70 S.C.”
Cho rằng truyền thuyết về Đấng Christ, dưới dạng một sách Phúc Âm, lại được lưu hành khắp nơi và gây ảnh hưởng sâu rộng như thế mà không có một chút sự thật nào làm căn bản là điều không thể có được.
Nếu việc này xảy ra thì nó cũng kỳ lạ như việc có một người nào trong thời đại của chúng ta viết tiểu sử về cố tổng thống John F. Kenedy, trong đó nói rằng ông tự xưng mình là Đức Chúa Trời, tha thứ tội lỗi của mọi người và từ cõi chết sống lại. Một câu chuyện hoang đường như thế không thể nào đứng vững được bởi vì còn có quá nhiều người biết tổng thống! Trong ánh sáng của những biên niên rất sớm và hợp lý của các cổ bản sách Phúc Âm thuyết truyền khẩu không thể nào đứng vững được.
4. Chúa Giê-xu đã nói sự thật - Ngài chính là Đức Chúa Trời đến trần gian. Về một phương diện thì lời tự xưng chẳng đáng kể bao nhiêu. Tuyên bố ba hoa là điều rất dễ làm! Ai cũng có thể tự xưng hay được người ta xưng là thần này thánh nọ khắp nơi trên thế giới. Tôi có thể tự xưng là Đức Chúa Trời và bạn cũng có thể tự xưng là Đức Chúa Trời nhưng câu hỏi mà tất cả chúng ta phải trả lời là: “Chúng ta đưa ra những bằng chứng gì để hậu thuẫn cho lời tự xưng của chúng ta?” Trong trường hợp của tôi thì không cần đến 5 phút là tôi đã bị lột mặt nạ rồi. Và chắc trường hợp của bạn cũng không lâu hơn thế.
Nhưng trong trường hợp của Chúa Giê-xu người Na-xa-rét, vấn đề không đơn giản như vậy. Ngài có những bằng chứng để hậu thuẫn cho lời tự xưng của Ngài. Ngài nói rằng: “Dầu các ngươi chẳng tin ta, hãy tin những việc ta, để các ngươi hiểu và biết rằng Cha ở trong ta và ta ở trong Cha” (GiGa 10:38).
Những phẩm tính của Chúa Giê-xu chứng minh điều gì về Ngài?
Tính cách đạo đức của Ngài phù hợp với lời tự xưng của Ngài. Trước đây chúng ta đã đề cập đến nhiều bệnh nhân trong nhà thương điên thường tự xưng mình là thần thánh hay những nhân vật nổi tiếng nào đó, nhưng tính cách của họ trái ngược với những lời tự xưng đó. Với Đấng Christ thì không hề như vậy. Chúng ta không đem Đấng Christ để so sánh với những người khác; chúng ta đưa những người khác đối chiếu với Ngài để thấy Ngài hoàn toàn trái ngược với họ. Ngài là Đấng có một không hai - như chính Đức Chúa Trời vốn độc nhất vô nhị vậy.
Chúa Giê-xu không hề phạm tội. Những phẩm chất trong đời sống của Ngài cho phép Ngài thách thức kẻ thù của mình với câu hỏi: “Trong các ngươi có ai bắt ta thú tội được chăng?” (GiGa 8:46). Mặc dù Ngài nói với những kẻ rất muốn bới lông tìm vết để vạch ra một yếu điểm trong tính tình của Ngài, nhưng tất cả đều im hơi lặng tiếng. Chúng ta đọc về chuyện Chúa Giê-xu chịu cám dỗ, nhưng chúng ta không hề nghe chính Ngài xưng tội. Ngài chẳng bao giờ xin Đức Chúa Trời tha tội, dầu Ngài dạy những kẻ theo Ngài làm điều đó. Việc Chúa Giê-xu không hề ý thức về tội lỗi của riêng Ngài là điều hoàn toàn trái ngược trong từng trải của các thánh nhân và các nhà thần bí học thuộc mọi thời đại. Loài người cả nam lẫn nữ, càng đến gần Đức Chúa Trời bao nhiêu thì họ càng cảm thấy những thất bại, hư hoại và khiếm khuyết của mình đè nặng trên mình. Điều này đúng trong lĩnh vực đạo đức cho những con người trần tục. Càng gần với ánh sáng bao nhiêu người ta càng nhận thấy mình cần phải được tắm rửa bấy nhiêu.
Những môn đệ của Ngài như Giăng, Phao-lô và Phi-e-rơ, là những người đã được dạy dỗ từ thuở nhỏ phải tin vào tính phổ quát của tội lỗi đều nói về tính chất không hề phạm tội của Chúa Giê-xu: “Ngài chưa hề phạm tội, trong miệng Ngài thấy không có chút chi dối trá” (IPhi 1Pr 2:22) “Trong Ngài không có tội lỗi” (IGi1Ga 3:5) Chúa Giê-xu chẳng biết tội lỗi” (IICo 2Cr 5:21). Phi-lát, không phải là bạn của Chúa Giê-xu, cũng thừa nhận rằng: “Ta chẳng thấy người có tội lỗi gì cả” (GiGa 18:38). Ông hoàn toàn nhận thức được sự vô tội của Chúa Giê-xu. Và người sĩ quan La Mã chứng kiến cái chết của Chúa Giê-xu cũng thốt lên: “Thật người nầy là Con Đức Chúa Trời!” (Mat Mt 27:54).
Chúng ta tìm thấy một nhân cách hoàn hảo nơi Chúa Giê-xu. Bernard Ramm chỉ ra rằng:
Nếu Đức Chúa Trời đã từng là con người, thì chúng ta mong muốn rằng nhân cách của Ngài phải mang nhân tính thật sự. Chỉ một mình Đức Chúa Trời mới có thể nói cho chúng ta biết một con người hoàn toàn phải như thế nào. Chắc chắn rằng đã có những người tin kính tiêu biểu trong Cựu Ước. Trước hết, người ấy phải hoàn toàn có ý thức, kết hợp với việc tận hiến và thánh hóa đời sống cho Đức Chúa Trời. Tiếp theo những điều đó là những đức tính, những đặc ân, và thuộc tính khác vốn là đặc trưng của một nhân tính trọn vẹn. Thông minh không thể ngăn lại sự tin kính, sự cầu nguyện không thể thay thế được cho việc làm, lòng sốt sắng không nên quá độ đến cuồng tín, và tính dè dặt không đến mức lãnh đạm.
Trong Đấng Christ chúng ta thấy một sự hòa lẫn rất hoàn toàn của những nét đặc biệt về con người, vì với tư cách Đức Chúa Trời nhập thể, Ngài là một người có nhân tính trọn vẹn. John Schaff mô tả như sau:
“Lòng sốt sắng của Ngài không bao giờ biến thành sự ham mê, hay sự chuyên tâm của Ngài trở thành ngoan cố, lòng nhân từ trở nên yếu đuối, hay tính dịu dàng trở thành đa cảm. Sự bất tiêm nhiễm thế gian của Ngài không bao hàm thái độ lãnh đạm, tính xã giao hay tình thân mật quá độ; tính tiết chế của Ngài không phải là sự phiền muộn; sự điều độ của Ngài không phải là nghiêm khắc. Ngài kết hợp được vẻ ngây thơ vô tội của trẻ con với sức mạnh của người trưởng thành, tận hiến hoàn toàn cho Đức Chúa Trời với thái độ thích thú không mệt mỏi của con người, tình yêu thương dịu dàng đối với tội nhân với sự nghiêm khắc không hề nhượng bộ trước tội lỗi, uy quyền ra lệnh với sự khiêm nhường được lòng người ta, lòng can đảm không hề biết sợ hãi với tính thận trọng đầy khôn ngoan, tính cương quyết không nhường bước, cùng với lòng tử tế dịu dàng!” 3
Đấng Christ chứng tỏ rằng Ngài có một năng lực siêu nhiên mà chỉ có Đức Chúa Trời là Đấng tạo ra các năng lực đó mới có được. Ngài đã từng dẹp yên bão sóng trên biển Ga-li-lê khiến những người trong thuyền phải kinh ngạc thắc mắc: “Người nầy là ai, mà gió và biển cũng đều vâng lịnh người.” (Mac Mc 4:41). Ngài từng hóa nước thành rượu và dùng năm cái bánh và hai con cá nuôi 5000 người ăn, trả lại cho người quả phụ than khóc đứa con trai bằng cách khiến cho nó từ chết sống lại, cũng đã khiến đứa con gái của người cha đang tan nát lòng được hồi sinh. Ngài đã nói với một người bạn cũ: “Hỡi La-xa-rơ, hãy bước ra!” và đã khiến ông từ kẻ chết sống lại cách lạ lùng.
Điều có ý nghĩa nhất là kẻ thù của Ngài không hề chối bỏ những phép lạ này. Trái lại, họ đã tìm cách giết Ngài: “Họ nói với nhau rằng, nếu chúng ta để cho người làm, thì thiên hạ tin người” (GiGa 11:48).
Chúa Giê-xu đã chứng minh quyền năng của Đấng Tạo Hóa trên bệnh tật và sự đau yếu. Ngài khiến kẻ què đi được, người câm nói được và người mù thấy được. Một số bệnh Ngài chữa lành thuộc loại bệnh bẩm sinh mà khoa tâm lý cơ thể học cũng bó tay. Trường hợp nổi bật hơn hết là câu chuyện người mù được chép trong GiGa 9:1-41. Dù anh ta không trả lời được những câu hỏi của người chất vấn anh nhưng những kinh nghiệm mà anh có được đã đủ thuyết phục. Anh tuyên bố: “Trước tôi mù, bây giờ tôi nhìn thấy được”. Anh rất kinh ngạc vì bạn bè anh không nhận ra rằng Đấng chữa lành cho anh là Con Đức Chúa Trời. Anh bảo họ: “Từ tạo thiên lập địa đến giờ, người ta chẳng hề nghe nói có ai mở mắt kẻ mù từ lúc mới được sanh ra.” Đối với anh ta thì bằng chứng thật là rõ rệt.
Bằng cớ quan trọng nhất chứng tỏ lời tự xưng là Đức Chúa Trời của Chúa Giê-xu chính là sự phục sinh của Ngài. Ngài đã năm lần báo trước rằng mình sẽ chịu chết. Ngài cũng nói trước về cách Ngài sẽ chết và sau ba ngày sẽ sống lại như thế nào và hiện ra với các môn đồ ra sao (Mat Mt 16:21; 17:322-23; Mac Mc 8:31; 10:32-33; LuLc 9:22). Dĩ nhiên đây là một thử thách trọng đại. Rất dễ kiểm chứng lời tự xưng, hoặc là nó sẽ xảy ra hoặc là nó không bao giờ xảy ra.
Sự phục sinh là một đề tài tối quan trọng có tính cách căn bản cho nên tôi sẽ dành cả một chương cho nó. Nếu sự phục sinh đã thực sự xảy ra, thì những phép lạ khác không còn khó khăn gì nữa. Và nếu chúng ta có thể xác định sự phục sinh của Ngài, chúng ta đã có lời giải đáp cho câu hỏi quan trọng về Đức Chúa Trời, tính tình của Ngài và mối liện hệ của chúng ta với Ngài. Đã có lời giải đáp cho câu hỏi này rồi, chúng ta sẽ đủ khả năng giải đáp tất cả các câu hỏi có liên quan khác.
Đấng Christ điều khiển lịch sử mà chỉ một mình Đức Chúa Trời mới làm được. Schaff tóm lược lại bức chân dung của Chúa Giê-xu trong Tân Ước như sau:
Chúa Giê-xu người Na-xa-rét này, dầu không có tiền bạc và vũ khí cũng đã chinh phục nhiều triệu người hơn cả A-lịch-sơn Đại Đế, Sê-sa, Mohammed hay Napoleon; Ngài không cần khoa học hay học thức nhưng đã soi sáng trên các vấn đề nhân sinh và tâm linh nhiều hơn toàn thể các triết gia và học giả hợp lại; Ngài không cần học phương pháp hùng biện tại trường nhưng vẫn giảng ra những lời hằng sống chưa hề có ai từ trước tới nay nói và ảnh hưởng của Ngài đã vượt xa tầm các diễn giả hay thi sĩ; Ngài không cần viết một dòng chữ nào nhưng đã khiến cho nhiều ngòi bút chuyển động, cung cấp nhiều đề tài cho các bài giảng, bài diễn văn, bài tranh luận, nhiều tác phẩm nghiên cứu, tác phẩm nghệ thuật và những bài hát ca ngợi hơn cả một đạo binh của những vĩ nhân từ xưa tới nay họp lại.
4
Cuối cùng, chúng ta biết rằng Đấng Christ là Đức Chúa Trời bởi vì chúng ta vẫn có thể kinh nghiệm Ngài ngay trong thế kỷ hai mươi này. Kinh nghiệm tự nó không hẳn mang giá trị khẳng định, nhưng được kết hợp với những sự kiện khách quan của lịch sử về sự phục sinh, nó cho chúng ta một nền tảng để tin chắc. Không có một giả thuyết nào khác để giải thích tất cả các dữ kiện chúng ta có rõ ràng hơn sự kiện sâu xa rằng Chúa Giê-xu Christ là con Đức Chúa Trời.
Vì vậy sự giúp đỡ hiệu quả nhất chúng ta có thể làm cho mọi người là giới thiệu chính Chúa Giê-xu Christ này cho họ.
Đọc thêm
Bruce, F. F. Jesus: Lord and Savior. Downers Grove, InterVasity Press; London: Hodder & Stoughton, 1986.
Kreeft, Peter. Between Heaven and Hell. Downers Grove, Ill.: InterVasity Press, 1982.
Theo Vì sao chúng ta tin?
Đọc thêm!
Nhìn lướt qua chân trời của lịch sử chúng ta thấy có những manh mối chứng tỏ rằng Đức Chúa Trời tự bày tỏ chính Ngài. Có một sự việc nổi bật. Cách đây 2000 năm, tại một làng hẻo lánh thuộc xứ Palestine, một bé trai đã được sinh ra trong chuồng chiên. Sự ra đời của con trẻ đó đã khiến cho Hê-rốt, vị vua đang cai trị xứ ấy, khiếp sợ. Cố gắng tiêu diệt đứa trẻ được dự báo là sinh ra để “làm vua xứ Giu-đa”, vua Hế-rốt ra lệnh giết tất cả bé trai 2 tuổi trở xuống được sinh ra trong thành Bết-lê-hem. Ông hy vọng một cách vô ích rằng mình sẽ tiêu diệt được bất kỳ một địch thủ nào. Lịch sử gọi ông là “kẻ tàn sát những đứa trẻ vô tội” (Mat Mt 2:1-18).
Sự giáng sinh của Ngài chia đôi dòng thời gian. Cuộc đời của Con Trẻ này đã được định trước để thay đổi tiến trình của lịch sử. Hai ngàn năm trước, sự giáng thế của Ngài đã làm rung chuyển thế giới, thay đổi niên lịch và tập tục. Người theo thuyết vô thần ở Mỹ vẫn ghi ngày lên tờ ngân phiếu của họ với năm được tính từ ngày Chúa Giê-xu ra đời. Những người cai trị đất nước, ở phương Đông hay phương Tây, bất kể tôn giáo của họ là gì, đều dùng năm sinh gần đúng này của Ngài. Tự nhiên chúng ta tuyên bố sự giáng sinh của Ngài trên những bức thư, những giấy tờ hợp pháp, và những quyển lịch làm việc. Vào ngày chúng ta đặt ra để kỷ niệm ngày sinh của Ngài, thì khu đậu xe của phố thương mại hoàn toàn vắng hoe.
Cậu bé nầy, có ngày sinh mà chúng ta vẫn còn ăn mừng, cùng với cha mẹ sống ở thành Na-xa-rét, nơi Ngài học được nghề thợ mộc từ người cha trần gian của Ngài. Ngay từ đầu Ngài đã là một đứa trẻ khác thường. Năm được 12 tuổi, Ngài đã khiến các học giả và các giáo sư dạy đạo tại Giê-ru-sa-lem bối rối trước những câu hỏi của Ngài. Khi cha mẹ trách Ngài vì Ngài ở lại khi họ đã lên đường trở về, Ngài đáp lại bằng một câu trả lời rất khó hiểu: “Cha mẹ không biết tôi phải lo việc Cha tôi (Đức Chúa Trời) sao?” (LuLc 2:49). Câu trả lời của Ngài ngụ ý về mối quan hệ đặc biệt của Ngài với Đức Chúa Trời.
Chàng thanh niên này đã sống trong sự âm thầm cho đến khi được 30 tuổi, rồi bắt đầu chức vụ công khai suốt ba năm. Ngài là một người nhân hậu, và được truyền tụng là “giới bình dân vui vẻ nghe Ngài giảng dạy.” Khác với các giáo sư thời đó “Ngài giảng cách có quyền, chớ không phải như các thầy thông giáo và người Pha-ri-si” (Mat Mt 7:29).
Chúa Giê-xu tuyên bố Ngài là Con Đức Chúa Trời
Chẳng bao lâu người ta thấy rõ ràng là Ngài đã làm xáo trộn tất cả và tuyên bố nhiều câu về chính Ngài khiến mọi người đều kinh ngạc. Ngài bắt đầu tự xưng là một nhân vật lỗi lạc hơn một giáo sư hay một nhà tiên tri nữa. Ngài bắt đầu nói phán rõ ràng rằng Ngài là Đức Chúa Trời. Những lời giảng dạy của Ngài đều qui tụ vào điều Ngài đã tự xưng. Câu hỏi tối quan trọng Ngài đã nêu lên cho những người theo Ngài là: “Còn các ngươi thì xưng ta là ai?” Khi Phi-e-rơ thưa rằng: “Chúa là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời hằng sống” (16:15-16), thì Chúa Giê-xu đã không cho là lạ và cũng không quở trách Phi-e-rơ. Ngược lại, Ngài còn khen ông!
Chúa Giê-xu tuyên bố một cách dứt khoát rằng Ngài là Con của Đức Chúa Trời. Những người nghe Ngài đã bị lời giảng của Ngài công kích nặng nề. Chúng ta được biết rằng, dân Giu-đa càng kiếm cách nữa để giết Ngài, chẳng những vì Ngài phạm ngày Sa-bát thôi, mà lại vì Ngài gọi Đức Chúa Trời là Thân Phụ mình, tự cho mình bình đẳng với Đức Chúa Trời” (GiGa 5:18).
Vào một dịp khác, Ngài nói rằng: “Ta với Cha là một” (10:30). Dân Giu-đa lập tức muốn ném đá Ngài. Ngài hỏi họ muốn giết Ngài vì việc gì. Họ trả lời: “ Ấy chẳng phải vì một việc lành mà chúng ta ném đá người, nhưng vì lỗi lộng ngôn; ngươi là người mà tự xưng mình là Đức Chúa Trời” (10:33).
Chúa Giê-xu cũng tự xưng rõ ràng rằng Ngài có những thuộc tính mà chỉ có ở Đức Chúa Trời. Khi người bại liệt được giòng xuống từ mái nhà và đặt dưới chân Ngài, Ngài phán: “Hỡi con, tội lỗi con đã được tha” (Mac Mc 2:5). Việc này gây ra bất mãn lớn giữa vòng các thầy thông giáo. Họ nghĩ thầm “Sao tên này dám phạm thượng như vậy? Ngoài Đức Chúa Trời ra, đâu có ai tha tội được?” (2:7).
Chúa Giê-xu biết ý tưởng họ nên phán: “Bảo rằng, tội ngươi đã được tha, hay là bảo người rằng: Hãy đứng dậy, vác giường mà đi, hai điều ấy đều nào dễ hơn?” (2:8-9). Để hiệu quả hơn, Ngài trả lời câu hỏi bằng cách: “Vả hầu cho các người biết Con người ở thế gian có quyền tha tội (ý Ngài muốn nói rằng các ngươi bảo chỉ có Đức Chúa Trời mới có quyền tha tội là rất đúng, nhưng việc đó không ai thấy, bây giờ ta làm một việc mà các ngươi có thể thấy)” (2:10). Quay sang người bại, Ngài truyền lệnh: “Ta biểu ngươi, hãy đứng dậy, vác giường đi về nhà” (2:11). Người đàn ông đứng dậy và đi!
Tên gọi Con người là danh xưng Chúa Giê-xu dùng để nói về chính Ngài, nhưng đi kèm với những thuộc tính mà chỉ Đức Chúa Trời mới có. Trong lời nói liên quan đến việc Chúa Giê-xu đến thế gian, Ngài nói về chính mình như Con người đến để “ban sự sống của Ngài làm giá chuộc nhiều người.” Đây không phải là lời phủ nhận về thần tính theo bất kỳ nghĩa nào. Đúng hơn là danh xưng này bao gồm cả thần tính và sự giáng sinh của Ngài như một phần của nhân loại. Quyền phép, những phép lạ, những sự dạy dỗ và tính cách của Ngài, là những đặc điểm thật mà chỉ ở Đức Chúa Trời mới có.
Đến giờ quyết định, khi mạng sống của Ngài đang lâm nguy vì cớ những lời tự xưng đó, thầy cả thượng phẩm đặt câu hỏi với Ngài một cách trực tiếp:
“Ấy chính ngươi là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời đáng ngợi khen phải không?” Chúa Giê-xu đáp một cách bình thản: “Ta chính phải đó, các ngươi sẽ thấy Con người ngồi bên hữu quyền phép Đức Chúa Trời, và ngự giữa đám mây trên trời mà đến.” Bấy giờ thầy cả thượng phẩm xé áo mình ra mà phán rằng: “Chúng ta có cần kiếm chứng cớ khác nữa làm chi? Các ngươi có nghe lời lộng ngôn chăng?” (14:61-64).
John Stott tóm tắt lại như sau:
Mối liên hệ giữa Ngài với Đức Chúa Trời quá gần gũi nên tự nhiên Ngài xem thái độ của một người đối với Ngài là thái độ của người đó đối với Đức Chúa Trời. Cho nên:
Ai biết Ngài tức là biết Đức Chúa Trời
Ai thấy Ngài tức là thấy Đức Chúa Trời
Ai tin Ngài tức là tin Đức Chúa Trời
Ai tiếp nhận Ngài tức là tiếp nhận Đức Chúa Trời
Ai ghét Ngài tức là ghét Đức Chúa Trời
Ai tôn vinh Ngài tức là tôn vinh Đức Chúa Trời.
Chỉ có bốn trường hợp có thể xảy ra
Khi chúng ta đối diện với lời tự xưng về thần tính của Đấng Christ, chỉ có bốn khả năng. Ngài hoặc là một kẻ nói dối, một người điên, một nhân vật của truyền thuyết hoặc Ngài là Chân Lý. Nếu chúng ta nói Ngài không phải là Chân Lý, thì lẽ đương nhiên chúng ta đã nhận ba khả năng còn lại, dù chúng ta có ý thức như thế hay không. Xem xét những khả năng này rất ích lợi cho chúng ta.
Chúa Giê-xu có nói dối khi tự xưng Ngài là Đức Chúa Trời khi Ngài biết rằng Ngài không phải là Đức Chúa Trời không? Nếu như vậy, Ngài cố ý lừa dối những người nghe Ngài để mượn uy quyền của Đức Chúa Trời cho chính Ngài và cho lời giảng dạy của Ngài. Rất ít người hay hầu như không có ai giữ quan điểm này một cách nghiêm túc. Ngay cả những người chối bỏ thần tính của Ngài cũng khẳng định rằng Chúa Giê-xu là một giáo sư vĩ đại đầy đạo đức. Họ thất bại khi không nhận thấy rằng hai quan điểm này hoàn toàn trái ngược nhau. Chúa Giê-xu khó có thể là một giáo sư vĩ đại đầy đạo đức nếu ngay ở điểm chính yếu trong sự giảng dạy của Ngài - lai lịch của Ngài - Ngài lại là một kẻ nói dối có chủ ý.
Ngài có phải là một người điên không? Chấp nhận quan điểm này sẽ dẫn đến việc làm méo mó cho bằng cớ. Thật sự thì chẳng có bằng chứng nào ủng hộ quan điểm này. Trái lại, tất cả những bằng chứng đều hướng về phía ngược lại. Tuy có vẻ nhẹ hơn, nhưng cũng không kém phần kinh ngạc khi nói rằng Ngài chân thật nhưng tự lừa dối. Ngày nay một người nào đó tự xưng là mình Đức Chúa Trời hay là món khoai tây chiên thì sẽ bị coi là “kẻ điên”, và chúng ta sẽ giúp đỡ người ấy. Tuy nhiên từ ngữ nầy sẽ trở nên lố bịch nếu chúng ta áp dụng vào Đấng Christ.
Khi nhìn vào đời sống của Đấng Christ, chúng ta không thấy bằng chứng nào của sự dị thường và mất thăng bằng thường thấy trong những người loạn trí. Hơn thế nữa, chúng ta chỉ thấy một sự điềm tĩnh vô hạn dưới những áp lực của đối phương. Trước tòa công luận của Phi-lát, khi cuộc sống của Ngài đang lâm nguy, Ngài đã rất điềm tĩnh và thản nhiên. Như C. S. Lewis đã nói: “Lời giảng dạy sâu sắc và lành mạnh mang tính đạo đức của Ngài rõ ràng không phù hợp với một người được chuẩn đoán là mắc bệnh hoang tưởng” điều đó không thể nào hài hòa được.
2 .Có phải Ngài là một truyền thuyết không? Khả năng thứ ba là tất cả những gì những môn đệ nhiệt thành của Ngài thuật lại về lời tự xưng rằng Ngài là Đức Chúa Trời và năng lực siêu nhiên của Ngài là một truyền thuyết. Thậm chí có những lời đồn đại rằng lời tự xưng là Đức Chúa Trời, sự giảng dạy và những phép lạ của Ngài chỉ được thêm vào từ thế kỷ thứ ba hay thứ tư sau này. Họ đã đặt những lời vào miệng Ngài mà nếu chính Ngài được nghe cũng phải kinh ngạc. Nếu Ngài tái lâm, chắc sẽ phủ nhận chúng lập tức.
Thuyết truyền khẩu này đã bị bác bỏ do những khám phá của ngành khảo cổ học hiện đại qua ba yếu tố.
Bốn quyển sách tiểu sử của Đấng Christ (Ma-thi-ơ, Mác, Lu-ca, Giăng) được viết ra trong thời của những người sống đồng thời với Ngài đã được chứng minh chắc chắn.
Tiến sĩ William F. Albright, một nhà khảo cổ học nổi tiếng thế giới đã kết luận như vậy: “Không có lý do gì để tin rằng có quyển sách Phúc Âm nào được viết sau năm 70 S.C.”
Cho rằng truyền thuyết về Đấng Christ, dưới dạng một sách Phúc Âm, lại được lưu hành khắp nơi và gây ảnh hưởng sâu rộng như thế mà không có một chút sự thật nào làm căn bản là điều không thể có được.
Nếu việc này xảy ra thì nó cũng kỳ lạ như việc có một người nào trong thời đại của chúng ta viết tiểu sử về cố tổng thống John F. Kenedy, trong đó nói rằng ông tự xưng mình là Đức Chúa Trời, tha thứ tội lỗi của mọi người và từ cõi chết sống lại. Một câu chuyện hoang đường như thế không thể nào đứng vững được bởi vì còn có quá nhiều người biết tổng thống! Trong ánh sáng của những biên niên rất sớm và hợp lý của các cổ bản sách Phúc Âm thuyết truyền khẩu không thể nào đứng vững được.
4. Chúa Giê-xu đã nói sự thật - Ngài chính là Đức Chúa Trời đến trần gian. Về một phương diện thì lời tự xưng chẳng đáng kể bao nhiêu. Tuyên bố ba hoa là điều rất dễ làm! Ai cũng có thể tự xưng hay được người ta xưng là thần này thánh nọ khắp nơi trên thế giới. Tôi có thể tự xưng là Đức Chúa Trời và bạn cũng có thể tự xưng là Đức Chúa Trời nhưng câu hỏi mà tất cả chúng ta phải trả lời là: “Chúng ta đưa ra những bằng chứng gì để hậu thuẫn cho lời tự xưng của chúng ta?” Trong trường hợp của tôi thì không cần đến 5 phút là tôi đã bị lột mặt nạ rồi. Và chắc trường hợp của bạn cũng không lâu hơn thế.
Nhưng trong trường hợp của Chúa Giê-xu người Na-xa-rét, vấn đề không đơn giản như vậy. Ngài có những bằng chứng để hậu thuẫn cho lời tự xưng của Ngài. Ngài nói rằng: “Dầu các ngươi chẳng tin ta, hãy tin những việc ta, để các ngươi hiểu và biết rằng Cha ở trong ta và ta ở trong Cha” (GiGa 10:38).
Những phẩm tính của Chúa Giê-xu chứng minh điều gì về Ngài?
Tính cách đạo đức của Ngài phù hợp với lời tự xưng của Ngài. Trước đây chúng ta đã đề cập đến nhiều bệnh nhân trong nhà thương điên thường tự xưng mình là thần thánh hay những nhân vật nổi tiếng nào đó, nhưng tính cách của họ trái ngược với những lời tự xưng đó. Với Đấng Christ thì không hề như vậy. Chúng ta không đem Đấng Christ để so sánh với những người khác; chúng ta đưa những người khác đối chiếu với Ngài để thấy Ngài hoàn toàn trái ngược với họ. Ngài là Đấng có một không hai - như chính Đức Chúa Trời vốn độc nhất vô nhị vậy.
Chúa Giê-xu không hề phạm tội. Những phẩm chất trong đời sống của Ngài cho phép Ngài thách thức kẻ thù của mình với câu hỏi: “Trong các ngươi có ai bắt ta thú tội được chăng?” (GiGa 8:46). Mặc dù Ngài nói với những kẻ rất muốn bới lông tìm vết để vạch ra một yếu điểm trong tính tình của Ngài, nhưng tất cả đều im hơi lặng tiếng. Chúng ta đọc về chuyện Chúa Giê-xu chịu cám dỗ, nhưng chúng ta không hề nghe chính Ngài xưng tội. Ngài chẳng bao giờ xin Đức Chúa Trời tha tội, dầu Ngài dạy những kẻ theo Ngài làm điều đó. Việc Chúa Giê-xu không hề ý thức về tội lỗi của riêng Ngài là điều hoàn toàn trái ngược trong từng trải của các thánh nhân và các nhà thần bí học thuộc mọi thời đại. Loài người cả nam lẫn nữ, càng đến gần Đức Chúa Trời bao nhiêu thì họ càng cảm thấy những thất bại, hư hoại và khiếm khuyết của mình đè nặng trên mình. Điều này đúng trong lĩnh vực đạo đức cho những con người trần tục. Càng gần với ánh sáng bao nhiêu người ta càng nhận thấy mình cần phải được tắm rửa bấy nhiêu.
Những môn đệ của Ngài như Giăng, Phao-lô và Phi-e-rơ, là những người đã được dạy dỗ từ thuở nhỏ phải tin vào tính phổ quát của tội lỗi đều nói về tính chất không hề phạm tội của Chúa Giê-xu: “Ngài chưa hề phạm tội, trong miệng Ngài thấy không có chút chi dối trá” (IPhi 1Pr 2:22) “Trong Ngài không có tội lỗi” (IGi1Ga 3:5) Chúa Giê-xu chẳng biết tội lỗi” (IICo 2Cr 5:21). Phi-lát, không phải là bạn của Chúa Giê-xu, cũng thừa nhận rằng: “Ta chẳng thấy người có tội lỗi gì cả” (GiGa 18:38). Ông hoàn toàn nhận thức được sự vô tội của Chúa Giê-xu. Và người sĩ quan La Mã chứng kiến cái chết của Chúa Giê-xu cũng thốt lên: “Thật người nầy là Con Đức Chúa Trời!” (Mat Mt 27:54).
Chúng ta tìm thấy một nhân cách hoàn hảo nơi Chúa Giê-xu. Bernard Ramm chỉ ra rằng:
Nếu Đức Chúa Trời đã từng là con người, thì chúng ta mong muốn rằng nhân cách của Ngài phải mang nhân tính thật sự. Chỉ một mình Đức Chúa Trời mới có thể nói cho chúng ta biết một con người hoàn toàn phải như thế nào. Chắc chắn rằng đã có những người tin kính tiêu biểu trong Cựu Ước. Trước hết, người ấy phải hoàn toàn có ý thức, kết hợp với việc tận hiến và thánh hóa đời sống cho Đức Chúa Trời. Tiếp theo những điều đó là những đức tính, những đặc ân, và thuộc tính khác vốn là đặc trưng của một nhân tính trọn vẹn. Thông minh không thể ngăn lại sự tin kính, sự cầu nguyện không thể thay thế được cho việc làm, lòng sốt sắng không nên quá độ đến cuồng tín, và tính dè dặt không đến mức lãnh đạm.
Trong Đấng Christ chúng ta thấy một sự hòa lẫn rất hoàn toàn của những nét đặc biệt về con người, vì với tư cách Đức Chúa Trời nhập thể, Ngài là một người có nhân tính trọn vẹn. John Schaff mô tả như sau:
“Lòng sốt sắng của Ngài không bao giờ biến thành sự ham mê, hay sự chuyên tâm của Ngài trở thành ngoan cố, lòng nhân từ trở nên yếu đuối, hay tính dịu dàng trở thành đa cảm. Sự bất tiêm nhiễm thế gian của Ngài không bao hàm thái độ lãnh đạm, tính xã giao hay tình thân mật quá độ; tính tiết chế của Ngài không phải là sự phiền muộn; sự điều độ của Ngài không phải là nghiêm khắc. Ngài kết hợp được vẻ ngây thơ vô tội của trẻ con với sức mạnh của người trưởng thành, tận hiến hoàn toàn cho Đức Chúa Trời với thái độ thích thú không mệt mỏi của con người, tình yêu thương dịu dàng đối với tội nhân với sự nghiêm khắc không hề nhượng bộ trước tội lỗi, uy quyền ra lệnh với sự khiêm nhường được lòng người ta, lòng can đảm không hề biết sợ hãi với tính thận trọng đầy khôn ngoan, tính cương quyết không nhường bước, cùng với lòng tử tế dịu dàng!” 3
Đấng Christ chứng tỏ rằng Ngài có một năng lực siêu nhiên mà chỉ có Đức Chúa Trời là Đấng tạo ra các năng lực đó mới có được. Ngài đã từng dẹp yên bão sóng trên biển Ga-li-lê khiến những người trong thuyền phải kinh ngạc thắc mắc: “Người nầy là ai, mà gió và biển cũng đều vâng lịnh người.” (Mac Mc 4:41). Ngài từng hóa nước thành rượu và dùng năm cái bánh và hai con cá nuôi 5000 người ăn, trả lại cho người quả phụ than khóc đứa con trai bằng cách khiến cho nó từ chết sống lại, cũng đã khiến đứa con gái của người cha đang tan nát lòng được hồi sinh. Ngài đã nói với một người bạn cũ: “Hỡi La-xa-rơ, hãy bước ra!” và đã khiến ông từ kẻ chết sống lại cách lạ lùng.
Điều có ý nghĩa nhất là kẻ thù của Ngài không hề chối bỏ những phép lạ này. Trái lại, họ đã tìm cách giết Ngài: “Họ nói với nhau rằng, nếu chúng ta để cho người làm, thì thiên hạ tin người” (GiGa 11:48).
Chúa Giê-xu đã chứng minh quyền năng của Đấng Tạo Hóa trên bệnh tật và sự đau yếu. Ngài khiến kẻ què đi được, người câm nói được và người mù thấy được. Một số bệnh Ngài chữa lành thuộc loại bệnh bẩm sinh mà khoa tâm lý cơ thể học cũng bó tay. Trường hợp nổi bật hơn hết là câu chuyện người mù được chép trong GiGa 9:1-41. Dù anh ta không trả lời được những câu hỏi của người chất vấn anh nhưng những kinh nghiệm mà anh có được đã đủ thuyết phục. Anh tuyên bố: “Trước tôi mù, bây giờ tôi nhìn thấy được”. Anh rất kinh ngạc vì bạn bè anh không nhận ra rằng Đấng chữa lành cho anh là Con Đức Chúa Trời. Anh bảo họ: “Từ tạo thiên lập địa đến giờ, người ta chẳng hề nghe nói có ai mở mắt kẻ mù từ lúc mới được sanh ra.” Đối với anh ta thì bằng chứng thật là rõ rệt.
Bằng cớ quan trọng nhất chứng tỏ lời tự xưng là Đức Chúa Trời của Chúa Giê-xu chính là sự phục sinh của Ngài. Ngài đã năm lần báo trước rằng mình sẽ chịu chết. Ngài cũng nói trước về cách Ngài sẽ chết và sau ba ngày sẽ sống lại như thế nào và hiện ra với các môn đồ ra sao (Mat Mt 16:21; 17:322-23; Mac Mc 8:31; 10:32-33; LuLc 9:22). Dĩ nhiên đây là một thử thách trọng đại. Rất dễ kiểm chứng lời tự xưng, hoặc là nó sẽ xảy ra hoặc là nó không bao giờ xảy ra.
Sự phục sinh là một đề tài tối quan trọng có tính cách căn bản cho nên tôi sẽ dành cả một chương cho nó. Nếu sự phục sinh đã thực sự xảy ra, thì những phép lạ khác không còn khó khăn gì nữa. Và nếu chúng ta có thể xác định sự phục sinh của Ngài, chúng ta đã có lời giải đáp cho câu hỏi quan trọng về Đức Chúa Trời, tính tình của Ngài và mối liện hệ của chúng ta với Ngài. Đã có lời giải đáp cho câu hỏi này rồi, chúng ta sẽ đủ khả năng giải đáp tất cả các câu hỏi có liên quan khác.
Đấng Christ điều khiển lịch sử mà chỉ một mình Đức Chúa Trời mới làm được. Schaff tóm lược lại bức chân dung của Chúa Giê-xu trong Tân Ước như sau:
Chúa Giê-xu người Na-xa-rét này, dầu không có tiền bạc và vũ khí cũng đã chinh phục nhiều triệu người hơn cả A-lịch-sơn Đại Đế, Sê-sa, Mohammed hay Napoleon; Ngài không cần khoa học hay học thức nhưng đã soi sáng trên các vấn đề nhân sinh và tâm linh nhiều hơn toàn thể các triết gia và học giả hợp lại; Ngài không cần học phương pháp hùng biện tại trường nhưng vẫn giảng ra những lời hằng sống chưa hề có ai từ trước tới nay nói và ảnh hưởng của Ngài đã vượt xa tầm các diễn giả hay thi sĩ; Ngài không cần viết một dòng chữ nào nhưng đã khiến cho nhiều ngòi bút chuyển động, cung cấp nhiều đề tài cho các bài giảng, bài diễn văn, bài tranh luận, nhiều tác phẩm nghiên cứu, tác phẩm nghệ thuật và những bài hát ca ngợi hơn cả một đạo binh của những vĩ nhân từ xưa tới nay họp lại.
4
Cuối cùng, chúng ta biết rằng Đấng Christ là Đức Chúa Trời bởi vì chúng ta vẫn có thể kinh nghiệm Ngài ngay trong thế kỷ hai mươi này. Kinh nghiệm tự nó không hẳn mang giá trị khẳng định, nhưng được kết hợp với những sự kiện khách quan của lịch sử về sự phục sinh, nó cho chúng ta một nền tảng để tin chắc. Không có một giả thuyết nào khác để giải thích tất cả các dữ kiện chúng ta có rõ ràng hơn sự kiện sâu xa rằng Chúa Giê-xu Christ là con Đức Chúa Trời.
Vì vậy sự giúp đỡ hiệu quả nhất chúng ta có thể làm cho mọi người là giới thiệu chính Chúa Giê-xu Christ này cho họ.
Đọc thêm
Bruce, F. F. Jesus: Lord and Savior. Downers Grove, InterVasity Press; London: Hodder & Stoughton, 1986.
Kreeft, Peter. Between Heaven and Hell. Downers Grove, Ill.: InterVasity Press, 1982.
Theo Vì sao chúng ta tin?
Đọc thêm!
Thứ Ba, 30 tháng 6, 2009
Cơ Đốc Giáo Có Hợp Lý Không?
“Niềm tin là gì?” Vị giáo viên Trường Chúa Nhật hỏi và một cậu bé trả lời trong chớp mắt: “Là tin điều mà ta biết là không có thật.”
Không có gì ngạc nhiên khi có những người đang tìm hiểu về niềm tin và Cơ Đốc giáo định nghĩa theo cách này. Trong thực tế, có nhiều tín đồ âm thầm hay công khai chấp nhận quan điểm như thế. Hơn hai mươi năm qua, tôi đã từng đưa ra câu hỏi này trong các buổi thảo luận ở các trường đại học và cao đẳng khắp đất nước. Một sinh viên đại học trung bình cũng có thể sẽ đưa ra cùng một câu trả lời như cậu bé nọ. Có thể được diễn tả bằng những từ ngữ khác nhau nhưng câu trả lời vẫn tiềm tàng ý tưởng tự đánh lừa và không tin chắc.
Khi trình bày cho các sinh viên tôi dùng những từ ngữ đơn giản để mô tả ý nghĩa niềm tin mà Kinh Thánh trình bày. Sau đó tôi đặt ra những câu hỏi cho thính giả ở dưới. Những câu trả lời của họ cho thấy vấn đề đã được sáng tỏ.
Bạn vẫn cần đến trí óc
Những người tìm hiểu sẽ nhận xét một cách đầy thách thức rằng buổi thảo luận thật là ích lợi bởi vì lần đầu tiên họ được nghe một bản đúc kết súc tích và thực tế về sứ điệp Tin Lành. Những người đã tin thỉnh thoảng cũng nói rằng họ rất thỏa mãn được nghe câu chuyện Tin Lành được biện giải một cách mạch lạc trong những cuộc thảo luận công khai như vậy. Họ nhận ra rằng họ không phải từ bỏ trí óc của mình khi trở thành một tín đồ!
Chúng ta sống trong một thế giới ngày càng có nhiều người sành điệu và học thức với nhiều sự chọn lựa lôi cuốn sự chú ý của chúng ta. Vô tình những điều chúng ta tin tưởng sẽ bị suy giảm vì nhiều thứ hấp dẫn khác và hệ thống niềm tin của chúng ta bị lung lay. Thế giới như thế đòi hỏi chúng ta phải biết tại sao chúng ta tin và xem xét những chân lý hỗ trợ cho niềm tin đó. Chúng ta sống dựa trên những chân lý nào?
Đối với câu hỏi quan trọng là Cơ Đốc giáo có hợp lý không và có thể đứng vững trước sự khảo nghiệm hay không, chúng ta cần bắt đầu với từ ngữ niềm tin, một từ ngữ rất thường bị hiểu lầm. Có ba ý nghĩ nảy ra trong tâm trí chúng ta.
Hằng ngày tất cả chúng ta đều sử dụng niềm tin. Khó tránh sử dụng niềm tin - ngay cả khi gạt bỏ niềm tin tôn giáo qua một bên. Chúng ta có niềm tin nơi bác sĩ, niềm tin nơi quầy hàng rau cải, niềm tin nơi người hò hẹn với chúng ta. Thậm chí chúng ta cũng có niềm tin với chuyến xe lửa chở chúng ta đến chỗ làm hay người bưu tá đem phiếu chi trả đến cho chúng ta. Nhà khoa học có niềm tin nơi những phương pháp khoa học được nghiên cứu bởi những nhà khoa học trước mà họ tin rằng là những con người chân thật. Niềm tin đơn giản là sự tin cậy; chúng ta phải vận dụng niềm tin, ít ra trong một mức độ nào đó, để có thể giao tiếp với thế giới thực tế này một cách có ý nghĩa.
Niềm tin chỉ có giá trị khi đối tượng được đặt đúng chỗ. Tin cậy vào một thức ăn chưa được kiểm nghiệm, một bác sĩ không đủ trình độ hay một người gian dối, thì niềm tin đó không có giá trị gì cả. Một ví dụ đáng buồn về niềm tin bị đặt sai chỗ là câu chuyện của một sinh viên khi nói với tôi rằng bạn gái của cậu từ lâu đã hẹn hò với một chàng trai khác nay cô ta sắp kết hôn với cậu. Niềm tin có thể có ý định tốt nhưng đối tượng không đáng tin và như thế niềm tin trở thành vô ích. Niềm tin dù ít ỏi nhưng được đặt nơi một đối tượng đáng tin cậy thì vẫn có thể đem lại kết quả. Chẳng hạn, bạn có một niềm tin yếu ớt trên một tảng băng dày, kết quả vẫn rất tích cực: tảng băng sẽ chịu trọng lượng của bạn bất chấp niềm tin của bạn mạnh như thế nào.
Thử nghiệm mức độ đáng tin cậy của đối tượng niềm tin là một lời khuyên hợp lý và chắc chắn. Sự khôn ngoan dẫn chúng ta đến chỗ tìm hiểu sự thật về bất cứ đối tượng nào của niềm tin chúng ta. Nếu đồng hồ chạy sai, chúng ta chỉnh nó lại. Đó là một việc làm khôn ngoan. 1
Xét lại những suy nghĩ trước đây của chúng ta
Một vài ví dụ sau đây sẽ giúp chúng ta xem xét niềm tin như một phần bình thường trong cuộc sống chúng ta. Từ đó chúng ta sẽ quay sang kiểm nghiệm mức độ hợp lý của niềm tin Cơ Đốc cách khách quan nhất có thể được. Tính khách quan chắc chắn được tô điểm do những suy nghĩ trước đây của chúng ta về Cơ Đốc giáo. Những sự kiện nào chúng ta biết về nó? Chúng ta xem xét nó như là điều hợp lý hay không hợp lý? Thích đáng hay không thích đáng? Đối với những sinh viên thì suy nghĩ trước đây của họ được thể hiện rõ ràng qua những câu hỏi họ đặt ra. Một số câu hỏi phần lớn liên quan đến sự thiếu hiểu biết, một số khác là do hiểu lệch lạc nội dung cơ bản của Cơ Đốc giáo. Luôn có những câu hỏi sâu sắc và yếu tố “tại sao” đầy bí ẩn được đặt ra với lòng sốt sắng thật sự.
Suy nghĩ đầu tiên của một người là yếu tố cơ bản. “Những gì bạn nghĩ bạn biết có thể làm bạn đau khổ” là tựa một bài báo của tờ Chicago Tribune. “Ít hiểu biết cũng có thể tác hại đến khả năng tài chính của bạn” là đề mục nhỏ, liệt kê khoảng hơn mười lăm ví dụ về những suy nghĩ ngớ ngẩn thông thường của những nhà đầu tư, như “tôi cố gắng tiết kiệm tiền bạc bằng cách đi mua đồ mỗi khi có hàng hạ giá.” Thiếu hiểu biết về niềm tin Cơ Đốc cũng có thể tai hại như vậy. Lãnh vực nào chúng ta hiểu hết sức rõ ràng về Cơ Đốc giáo và chỗ nào suy nghĩ chúng ta còn ngớ ngẩn?
Ngoài những suy nghĩ trước kia của chúng ta, một áng mây khác che mờ niềm tin chúng ta là “chỉ số tình cảm” hay thường được gọi là E. Q. Dù cho tổ tiên của chúng ta ở Hoa Kỳ hay ở một đất nước nào khác, thường có những kiểu mẫu sai lầm về đời sống Cơ Đốc nhân làm cho chúng ta thất vọng. Chỉ số tình cảm của chúng ta thậm chí lên đến tức giận khi chúng ta nghe đến từ “Cơ Đốc nhân.” Dĩ nhiên chúng ta đều có một sự khó chịu về một vài chuyện nào đó, nhưng sự nhận thức về nó cũng giúp ích cho chúng ta. Mặt khác, có thể chúng ta không có một mối liên hệ nào với các Cơ Đốc nhân hay Cơ Đốc giáo, nên chẳng hiểu biết gì và cũng không có sự khó chịu nào cả. Dù sao khi tìm hiểu những suy nghĩ và cảm xúc nguyên thủy của chúng ta càng nhiều, chúng ta càng có thể xem xét một cách khách quan “trường hợp của Cơ Đốc giáo,” như cách C. S. Lewis dùng.
Cơ Đốc giáo theo Kinh Thánh có nền tảng rất rõ ràng và đầy đủ. Đây không phải là một tôn giáo huyền bí. Nội dung của nó ẩn nấp dưới những biểu tượng kỳ bí nào đó, như học giả R. C. Sproul nói. Theo Sproul, khi ai đó thì thầm với bạn rằng ý nghĩa của cuộc sống là “một cái vỗ tay”, thì đó là huyền bí. Đó không phải là nền tảng suy nghĩ hợp lý. Tất nhiên đó cũng không phải là ý tưởng chúng tôi muốn trình bày về “lối suy nghĩ hợp lý”. 2
Bất cứ một tôn giáo nào cũng nhận rằng mình có những kinh nghiệm thuộc linh suýt soát với chúng ta. Từ thế kỷ 19 vào thời của triết học gia Friedrich Neitzsche đến ngày hôm nay, từ bên ngoài cộng đồng Cơ Đốc đến bên trong, người ta cũng bảo là Đức Chúa Trời đã chết rồi. Chủ nghĩa đạo đức nhân bản đang thu hút người ta mạnh mẽ hơn. Quyển Tôn Giáo Không Mạc Khải (Religion Without Revelation) của Julian Huxley là một dẫn chứng rõ ràng trong việc đề cập đến vấn đề Đức Chúa Trời đã chết. Tính đa nguyên đã chiếm phương tiện thông tin hiện đại trong việc biến thế giới trở nên một nhà. Chúng ta thường nghe những điều đại loại như:
1. Tất cả các tôn giáo đều có giá trị ngang nhau.
2. Những mâu thuẫn giữa các hệ thống tôn giáo được hoàn toàn chấp nhận.
3. Chân lý tuyệt đối không hề hiện hữu.
Cơ Đốc giáo được thử nghiệm một cách khách quan
Triết gia chuyên về phân tích Antony Flew chứng minh rằng đối với những người còn đang tìm kiếm thì những khẳng định tôn giáo không thể kiểm chứng được một cách khách quan cũng chỉ là vô nghĩa mà thôi. Ông dẫn chứng một câu chuyện ngụ ngôn của John Wisdom:
“Lần nọ, có hai nhà thám hiểm đến một khu đất trống trong rừng già. Trong khu đất trống ấy có rất nhiều hoa và cỏ dại. Một nhà thám hiểm nói: “Chắc phải có một người trông vườn chăm sóc cho khu đất này.” Nhưng người kia không đồng ý như vậy, ông ta bảo: “Không hề có ai lập vườn ở đây đâu.” Thế là cả hai cắm trại ở đó để rình xem. Họ không thấy ai cả. ”Có lẽ người làm vườn là một kẻ vô hình chăng? Vậy, họ làm một hàng rào bằng dây kẽm gai. Rồi họ mắc điện vào đó. Họ cũng thả chó canh phòng (vì họ nhớ chuyện Con Người Vô Hình của H. G. Well, tuy không bị nhìn thấy, nhưng có thể bị đánh hơi và sờ chạm được). Nhưng họ không nghe một tiếng kêu nào chứng tỏ có người đã xâm nhập khu đất ấy và bị điện giật. Cũng không hề có sự chuyển động nào trên các đường dây kẽm gai cho thấy người vô hình có leo vào. Bầy chó săn cũng không hề sủa lấy một tiếng. Dầu vậy, nhà thám hiểm tin có người làm vườn, vẫn chưa chịu khuất phục và nói rằng: “Phải có một người làm vườn vô hình mà điện không giật được; phải có một người làm vườn vẫn bí mật đến chăm sóc khu vườn mà ông ấy yêu mến.” Cuối cùng, kẻ hoài nghi đó cũng thất vọng: “Thế thì lời khẳng định ban đầu của mình còn lại cái gì? Người làm vườn mà ta gọi là vô hình, không sờ chạm được, vĩnh viễn mơ hồ kia có khác gì với một người làm vườn tưởng tượng hay với một người làm vườn chẳng bao giờ hiện diện chút nào đâu?” 3
John Montgomery, một học giả Tin Lành, đã nhận xét về câu chuyện nầy: “Trong niềm tin Cơ Đốc chúng ta không chỉ chủ trương suông rằng khu vườn của thế gian này được một Đấng Làm Vườn đầy yêu thương chăm sóc, nhưng chúng ta còn có những kinh nghiệm thực sự về chính Đấng Làm Vườn nầy đã bước vào khung cảnh loài người qua con người Chúa Giê-xu Christ (GiGa 20:14-15), và sự bước vào đó có thể kiểm chứng được qua sự sống lại của Ngài.” 4
Hệ thống chân lý hợp lý
Niềm tin Cơ Đốc nhân ít được xem xét một cách nghiêm túc, nó chỉ được xem như một trong số các chân lý được chứng thực mà không được nhìn nhận dưới khía cạnh là được xây dựng trên một một chân lý được sáng tỏ nào. Chân lý và mê tín khác nào bạn đồng hành.
Tuy nhiên điều ngược lại mới là thật. Chính Kinh Thánh nhấn mạnh tầm quan trọng của quá trình thể hiện hợp lý. Chúa Giê-xu cũng nhấn mạnh điều này với các môn đệ của Ngài: “Ngươi hãy hết lòng, hết linh hồn, hết ý mà yêu mến Chúa, là Đức Chúa Trời ngươi” (Mat Mt 22:37). Toàn bộ con người chúng ta có liên quan đến việc chúng ta đặt niềm tin nơi Ngài, tâm trí, tình cảm và ý chí. Sứ đồ Phao-lô mô tả chính mình như là người “binh vực và làm chứng đạo Tin Lành”, chẳng hạn ông đưa ra một lời biện giải cho niềm tin của mình (Phi Pl 1:7). Tất cả những điều này ngụ ý về một sứ điệp rõ ràng dễ hiểu có thể được hiểu và ủng hộ một cách hợp lý. Một đầu óc không được soi sáng là một đầu óc không bao giờ cởi mở trước chân lý của Đức Chúa Trời, nhưng sự soi sáng đem lại sự hiểu biết hoàn toàn thỏa đáng khi dựa trên hệ thống chân lý hợp lý. Mỗi chúng ta từ lúc thơ ấu cho đến khi trưởng thành đều cần lý luận và giải thích. Hãy nói với một đứa trẻ rằng nó sẽ bị phỏng nếu sờ vào một bếp lò nóng. Bấy giờ nó mới quyết định sờ vào hoặc không sờ vào. Nhưng nó đã được giải thích rồi. Tương tự như thế, sự soi sáng xuất phát từ sự hiểu biết những chân lý Cơ Đốc cơ bản.
Niềm tin của Cơ Đốc nhân luôn luôn đi đôi với chân lý. Và chân lý luôn luôn đối lập với sự giả dối (IITe 2Tx 2:11-12). Phao-lô đã gọi những người không biết Chúa là người “không vâng phục lẽ thật” (RoRm 2:8). Những lời khẳng định như vậy sẽ trở nên vô nghĩa nếu không có một cách nào đó để định nghĩa thật khách quan chân lý là gì. Vì những lý do thực tiễn, nếu điều gì không thể thực hiện được thì chân lý và ngụy lý cũng như nhau. Câu hỏi cơ bản là, chân lý tuyệt đối có hiện hữu không? Chúng ta có một bằng chứng rõ ràng.
Sự tạo dựng trời đất làm sáng tỏ chân lý
Như sứ đồ Phao-lô dẫn chứng, bản thân thiên nhiên cung cấp cho con người đủ thông tin để nhận biết rằng có một Đức Chúa Trời. Trong 1:19, ông nói rằng “Đức Chúa Trời đã tỏ điều đó cho họ rồi.” Rất dễ cho con người thấy Đức Chúa Trời, Ngài không hề giấu mặt. Sau đó Phao-lô bảo chúng ta nhìn vào thiên nhiên. “Những sự trọn lành của Ngài mắt không thấy được... thì từ buổi sáng thế vẫn sờ sờ như mắt xem thấy”, rồi ông tiếp tục kể ra hai phẩm tánh chủ yếu của Ngài vẫn được bày tỏ ngang nhau “Quyền phép đời đời và thần tính của Ngài ” (1:20).
Câu Kinh Thánh ngắn ngủi nhưng hiệu nghiệm này đã giải thích rằng Đức Chúa Trời trông đợi chúng ta tin nơi Ngài dựa trên những bằng chứng đầy đủ. Ngài cho chúng ta trí thông minh và lý luận hợp lý. Ngài đang nói với chúng ta rằng: “Hãy nhìn xem thiên nhiên, ngay cả vũ trụ này, hoặc chính thân thể của con thì con sẽ có bằng cớ về niềm tin nơi Đấng Tạo Hóa.” Tác phẩm “thủ công”, một tuyệt tác đặc biệt của Đấng Tạo Hóa thiên thượng nói cho chúng ta biết về sự chăm sóc tỉ mỉ và công việc liên tục của Ngài trong công trình sáng tạo.
“Quyền phép đời đời” của Ngài không phải là một thuật ngữ dễ thuyết phục trí óc của chúng ta. Bill Hybels cho chúng ta cách nhìn sơ khởi:
Đức Chúa Trời biết hết mọi việc. Không có câu hỏi nào làm Ngài phải lúng túng… nhưng tri thức này còn vượt xa hơn cả những sự kiện hiện thời. Đức Chúa Trời biết tất cả mọi việc vận hành ra sao. Hãy nghĩ về điều đó. Ngài có sự hiểu biết trọn vẹn về tất cả bí ẩn của các ngành sinh vật học, sinh lý học, động vật học, y học, tâm lý học, địa lý học, vật lý học, hóa học, và di truyền học. Ngài biết các quy định của Thiên Đàng, cả những nguyên lý và sự vận hành của mặt trời, mặt trăng và những đám mây. 5
Chúng ta có thể nói rằng những điều trên cho chúng ta một định nghĩa về sự vô hạn, chứ không phải giới hạn như chúng ta. Hơn nữa, Đức Chúa Trời còn biết cả bức tranh tổng quát vẽ mỗi khía cạnh trong đời sống cá nhân của chúng ta nữa.
Nhìn vào bức tranh lớn
Sự kiện này càng động viên chúng ta khám phá những câu trả lời cho việc làm thế nào chúng ta có thể thích hợp với “bức tranh lớn” từ chân trời của Đức Chúa Trời. Tại sao chúng ta ở đây, sống trong gia đình này và ở nơi này? Những việc chúng ta chọn lựa và những gì chúng ta làm mỗi ngày có gì quan trọng không? Làm sao chúng ta lại sống ở đất nước này mà không phải là một đất nước nào khác? Chuyện gì sẽ xảy ra khi chúng ta lìa cõi đời này?
Nhiều chương đã được viết ra dựa trên cái “tại sao” về sự hiện hữu của chúng ta, đây không phải là câu hỏi mới. Thỉnh thoảng đây là những điều mà chúng ta thắc mắc. Trong quyển sách bán chạy nhất, Khái Quát Lịch Sử Của Thời Đại (A Brief History of Time), Stephen Hawking tổng kết cả cuộc đời nghiên cứu và suy gẫm của mình bằng một câu hỏi. Sau khi kết luận những luận điểm của mình về “cái gì” và “như thế nào” của vũ trụ, ông nói với vẻ khao khát: “Giờ đây nếu chúng ta có thể biết được tại sao, thì chắc chắn chúng ta đã có đầu óc của Đức Chúa Trời rồi.” 6
Đối với nhiều người, có thể nào có những câu hỏi riêng tư của “tấm lòng” hoặc có thể là một cảm giác trống trải và mất mác kích thích những câu hỏi như vậy? Một nữ diễn viên nổi tiếng đã diễn tả rất thích hợp cái cảm giác “một khoảng trống trong tâm hồn” đã khiến cô bắt đầu tìm kiếm. Thực chất bức tranh của Đức Chúa Trời cho chúng ta trong Kinh Thánh là đưa cho chúng ta câu trả lời. Chúng ta không cần phải ở trong bóng tối. Có đầy đủ từng chứng cớ chứng tỏ rằng Đức Chúa Trời muốn chúng ta biết câu trả lời.
C. S. Lewis giải thích: “Chúng ta rất dễ tin rằng sợi dây thừng rất chắc khi chúng ta chỉ dùng nó để cột một cái hộp, nhưng giả sử chúng ta phải dùng sợi dây thừng đó để đu mình leo lên một vách núi dựng đứng. Chúng ta sẽ thật sự muốn biết sợi dây thừng đó đáng tin cậy tới mức nào.” 7
Màn kính đạo đức bị che mờ Màn kính đạo đức bị che mờ, hoặc sự mạc khải đầy trí tuệ của Đức Chúa Trời có thể vô tình che mờ sự hiểu biết của chúng ta. Sức kéo của đạo đức có thể trở nên nan giải, quá độ và không chịu từ bỏ chúng ta. Trong một số trường hợp, vấn đề thật sự không phải là con người không thể tin - nhưng mà là họ “sẽ không tin.” Chúa Giê-xu đã thẳng thừng vạch rõ đây chính là cội rễ của vấn đề khi nói chuyện với những người Pha-ri-si sùng đạo, những nhà cầm quyền hợp pháp thời bấy giờ. Ngài bảo họ: “Các ngươi không muốn đến cùng ta để được sự sống” (GiGa 5:40). Sau đó Chúa Giê-xu tiếp tục dạy rằng khi một kết ước đạo đức được thiết lập, nó sẽ đem lại sự hiểu biết cho tâm trí. Thậm chí nó còn đem lại sự quyết tâm loại bỏ những cản trở từ tâm trí. “Nếu ai khứng làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời, thì sẽ biết đạo lý ta có phải là bởi Đức Chúa Trời, hay là ta nói theo ý ta” (7:17).
Những nan đề về trí tuệ được khẳng định mà không được chứng minh thường là màn khói bao phủ sự nổi loạn của đạo đức. Như nhà thơ Emily Dickinson đã viết: “Không ai thất bại trong khoảnh khắc. Trượt ngã - là định luật phá sản.”
Một câu hỏi lạc đề nữa chúng ta thường nghe là: “Nếu Cơ Đốc giáo là hợp lý thì tại sao đa số những người có học thức lại không tin?” Câu trả lời thật giản dị. Họ không tin chính vì một vấn đề giống y như lý do khiến đa số những người không có học thức thường làm. Họ không muốn tin. Đó không phải là một vấn đề của năng lực trí óc, vì có rất nhiều Cơ Đốc nhân xuất sắc trong mọi lãnh vực về nghệ thuật và khoa học. Cuối cùng thì niềm tin cũng chỉ là vấn đề của ý chí. Và Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta những chứng cớ khởi điểm qua công trình sáng tạo của Ngài.
Có một sinh viên nọ nói với tôi rằng tôi đã trả lời thỏa mãn tất cả các câu hỏi của anh. Tôi bèn hỏi: “Vậy anh sẽ trở thành một Cơ Đốc nhân chứ?”
“Không đâu”, anh ta trả lời.
Lúng túng, tôi hỏi: “Sao lại không?”
Anh ta thú nhận: “Thú thật là điều đó sẽ làm xáo trộn cuộc sống hiện tại của tôi.” Anh ta nhận thức được rằng vấn đề thật sự của anh ta nằm ở phương diện đạo đức chứ không phải trí thức.
John Stott thiết lập một thế quân bình khi ông tóm tắt câu chuyện Tin Lành: “Chúng tôi không thể đồng lõa với sự kiêu ngạo về phương diện tri thức của con người, nhưng phải nâng đỡ cho sự ngay thẳng của trí tuệ người ấy.”
Sự nghi ngờ dẫn đến sự sợ hãi
Ngay cả những Cơ Đốc nhân tận hiến cũng đặt vấn đề với niềm tin của mình và tự hỏi không biết điều đó có thật hay không. Sự nghi ngờ có thể đem lại nỗi sợ hãi đối với tâm linh và thường bị đè nén cách bệnh hoạn. Những người sinh ra trong gia đình Cơ Đốc và giáo hội Cơ Đốc thấy rằng họ rất dễ nghi ngờ tính xác thực của những kinh nghiệm thời thơ ấu. Từ nhỏ họ đã chấp nhận sự kiện Cơ Đốc giáo chỉ dựa trên căn bản là sự tự tin và tin tưởng nơi cha mẹ, bạn bè và mục sư. Khi lớn lên và phát triển về phương diện học vấn, thì họ xét lại những sự dạy dỗ trước kia.
Kinh nghiệm như thế rất lành mạnh và cần thiết cho niềm tin đích thực và vững chắc. Không có gì phải sợ hay lo lắng về điều đó. Những lúc tôi đi du lịch tới một chỗ mới, tôi vẫn thường tự hỏi khi nhìn vào đường phố và những con người xa lạ “Little này, làm sao cậu biết là mình không hề bị một chương trình tuyên truyền rầm rộ lôi kéo? Dù sao thì cậu cũng đâu có thấy Đức Chúa Trời, có rờ, có nếm hay cảm biết Ngài đâu.” Và rồi tôi tiếp tục tự hỏi làm sao tôi biết Đức Chúa Trời và Đức Chúa Giê-xu Christ của Kinh Thánh là thật. Tôi luôn quay về với hai yếu tố cơ bản:
Khía cạnh khách quan, ngoại tại, những sự kiện lịch sử về sự phục sinh.
Khía cạnh chủ quan, nội tại, những từng trải cá nhân về Chúa Giê-xu mà tôi đã nhận biết trong chính cuộc đời của mình qua những cuộc giải phẫu nguy kịch và những quyết định khó khăn trong sự nghiệp.
Khi một người, dù già hay trẻ, bắt đầu thắc mắc và Đức Chúa Trời dường như xa cách họ, thì chúng ta nên hoan nghênh sự nghi ngờ ấy như một cách thức để tăng trưởng. Một Cơ Đốc nhân có thể giúp đỡ bằng cách hoan nghênh sự chân thật và thẳng thắn, để tạo ra một bầu không khí cho một người cảm thấy thoải mái để “trút bầu tâm sự” và bày tỏ những nghi ngờ của mình. Nếu không, người đó có thể bị đẩy vào đường cùng, thậm chí họ sẽ thối lui vì cớ họ nghĩ rằng một Cơ Đốc nhân tốt không bao giờ được nghi ngờ. Họ không phải là người ngu ngốc. Thật đáng buồn, tôi đã chứng kiến một vài người gặp phải sự phản hồi chẳng có chút cảm thông nào, họ nhanh chóng sang số và kịch liệt binh vực ý kiến của mình, dầu việc làm đó không xuất phát từ tấm lòng họ. Khi họ thoát ra khỏi áp lực phải tuân theo các hình thức, họ giũ bỏ niềm tin của mình như lột bỏ một cái áo mưa bởi vì nó chưa bao giờ là niềm tin của riêng họ cả.
Nghi ngờ và thắc mắc là bình thường đối với những con người biết suy nghĩ. Thay vì tỏ ra khó chịu, bất mãn, tốt hơn là chúng ta nên lắng nghe người hỏi mình, và nếu có thể, nên xoáy sâu vào câu hỏi hơn nữa. Rồi ta nên đề nghị một lời giải đáp. Vì Cơ Đốc giáo tập trung vào một Đấng vốn là Chân lý nên một cuộc khảo sát tỉ mỉ, cặn kẽ chẳng bao giờ làm hại cho đạo ấy cả.
Đừng hoảng sợ
Nếu chúng ta không có ngay câu trả lời, thiết tưởng không cần gì phải tỏ ra hoảng sợ. Chúng ta có thể tiếp tục tìm kiếm, kết tinh câu hỏi lại và kiểm tra ở những quyển sách chuyên về giải đáp những thắc mắc dường như khó giải đáp. Không có lý gì một câu hỏi mới do một ai đó nghĩ ra tuần trước lại có thể làm cho cả Cơ Đốc giáo phải sụp đổ. Những người sáng suốt đã từng suy nghĩ về những câu hỏi thật sâu sắc của mọi thời đại và đều trả lời được cả.
Chúng ta không cần trả lời thật đầy đủ tất cả các câu hỏi, vì Chúa không hề mạc khải đầy đủ tâm trí Ngài cho chúng ta về mọi vấn đề. “Những sự bí mật thuộc về Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta; song những sự bày tỏ thuộc về chúng ta, và con cháu chúng ta đời đời” (PhuDnl 29:29). Đây không phải là điều để trốn tránh trách nhiệm! Đức Chúa Trời ban cho chúng ta dư dật những hiểu biết để có một nền tảng vững chắc đằng sau niềm tin và cuộc sống của chúng ta. Cơ Đốc giáo dựa trên một niềm tin hợp lý. Nếu dùng cả núi chứng cớ để kiểm tra ý tưởng bạn thì đừng sợ hãi. Ở trường cao đẳng và đại học, khán giả có thể bao gồm 98% những người theo thuyết bất khả tri. Định thần một chút bạn có thể dễ dàng đoán được câu hỏi thường được đặt ra trong phần nửa tiếng đồng hồ. Những câu hỏi có thể đa dạng về mặt từ ngữ, nhưng vấn đề tiềm ẩn đều giống nhau. Sự nhất quán này là cả một nguồn giúp đỡ ích lợi để biết được những câu hỏi trọng tâm, chỗ nào cần mài giũa sự hiểu biết của mình và làm thế nào để mài giũa những tư tưởng trong quyển sách này.
Sự đáp ứng của những người nghi ngờ
Những người nghi ngờ là những người nhìn thấy những vấn đề rắc rối nằm ở đâu. Sau khi được giải đáp cho những thắc mắc của mình, bước kế tiếp là sự quyết định. Không quyết định gì cả tức là quyết định chống lại lập trường Cơ Đốc giáo. Nghi ngờ liên tục về những thông tin đầy đủ có nghĩa là không bỏ cuộc mà tiếp tục tìm kiếm và từ từ bạn sẽ được tưởng thưởng. “Cơ Đốc giáo không phải là một phương thuốc có bằng công nhận sáng chế. Nó nêu lên một loạt những sự kiện để trình bày cho bạn biết vũ trụ như thế nào. Nếu Cơ Đốc giáo là giả dối thì không có một con người thành thật nào muốn tin vào nó hết. Tuy nhiên, nếu nó là có thật, thì mọi con người thành thật đều muốn tin vào nó... Đúng, Cơ Đốc giáo sẽ làm cho chúng ta trở nên tốt hơn - tốt hơn nhiều so với bất cứ điều gì bạn có thể trông đợi!” 8
Chúng ta tin chắc rằng sự tìm kiếm hết lòng của chúng ta sẽ được thưởng. Trong những trang tiếp theo chúng ta sẽ nhấn mạnh một số câu trả lời cho những thắc mắc thường gặp và làm rõ những vấn đề đó. Bạn có thể tin điều này, bỏi vì Cơ Đốc giáo là có thật và hợp lý. Chúa Giê-xu cho chúng ta một lời khích lệ: “Ta đã đến, hầu cho chiên được sự sống và được sự sống dư dật” (Giăng 10:10).
Trích : Vì Sao Chúng Ta Tin ?
Tác giả: Paul E. Little
Đọc thêm!
Không có gì ngạc nhiên khi có những người đang tìm hiểu về niềm tin và Cơ Đốc giáo định nghĩa theo cách này. Trong thực tế, có nhiều tín đồ âm thầm hay công khai chấp nhận quan điểm như thế. Hơn hai mươi năm qua, tôi đã từng đưa ra câu hỏi này trong các buổi thảo luận ở các trường đại học và cao đẳng khắp đất nước. Một sinh viên đại học trung bình cũng có thể sẽ đưa ra cùng một câu trả lời như cậu bé nọ. Có thể được diễn tả bằng những từ ngữ khác nhau nhưng câu trả lời vẫn tiềm tàng ý tưởng tự đánh lừa và không tin chắc.
Khi trình bày cho các sinh viên tôi dùng những từ ngữ đơn giản để mô tả ý nghĩa niềm tin mà Kinh Thánh trình bày. Sau đó tôi đặt ra những câu hỏi cho thính giả ở dưới. Những câu trả lời của họ cho thấy vấn đề đã được sáng tỏ.
Bạn vẫn cần đến trí óc
Những người tìm hiểu sẽ nhận xét một cách đầy thách thức rằng buổi thảo luận thật là ích lợi bởi vì lần đầu tiên họ được nghe một bản đúc kết súc tích và thực tế về sứ điệp Tin Lành. Những người đã tin thỉnh thoảng cũng nói rằng họ rất thỏa mãn được nghe câu chuyện Tin Lành được biện giải một cách mạch lạc trong những cuộc thảo luận công khai như vậy. Họ nhận ra rằng họ không phải từ bỏ trí óc của mình khi trở thành một tín đồ!
Chúng ta sống trong một thế giới ngày càng có nhiều người sành điệu và học thức với nhiều sự chọn lựa lôi cuốn sự chú ý của chúng ta. Vô tình những điều chúng ta tin tưởng sẽ bị suy giảm vì nhiều thứ hấp dẫn khác và hệ thống niềm tin của chúng ta bị lung lay. Thế giới như thế đòi hỏi chúng ta phải biết tại sao chúng ta tin và xem xét những chân lý hỗ trợ cho niềm tin đó. Chúng ta sống dựa trên những chân lý nào?
Đối với câu hỏi quan trọng là Cơ Đốc giáo có hợp lý không và có thể đứng vững trước sự khảo nghiệm hay không, chúng ta cần bắt đầu với từ ngữ niềm tin, một từ ngữ rất thường bị hiểu lầm. Có ba ý nghĩ nảy ra trong tâm trí chúng ta.
Hằng ngày tất cả chúng ta đều sử dụng niềm tin. Khó tránh sử dụng niềm tin - ngay cả khi gạt bỏ niềm tin tôn giáo qua một bên. Chúng ta có niềm tin nơi bác sĩ, niềm tin nơi quầy hàng rau cải, niềm tin nơi người hò hẹn với chúng ta. Thậm chí chúng ta cũng có niềm tin với chuyến xe lửa chở chúng ta đến chỗ làm hay người bưu tá đem phiếu chi trả đến cho chúng ta. Nhà khoa học có niềm tin nơi những phương pháp khoa học được nghiên cứu bởi những nhà khoa học trước mà họ tin rằng là những con người chân thật. Niềm tin đơn giản là sự tin cậy; chúng ta phải vận dụng niềm tin, ít ra trong một mức độ nào đó, để có thể giao tiếp với thế giới thực tế này một cách có ý nghĩa.
Niềm tin chỉ có giá trị khi đối tượng được đặt đúng chỗ. Tin cậy vào một thức ăn chưa được kiểm nghiệm, một bác sĩ không đủ trình độ hay một người gian dối, thì niềm tin đó không có giá trị gì cả. Một ví dụ đáng buồn về niềm tin bị đặt sai chỗ là câu chuyện của một sinh viên khi nói với tôi rằng bạn gái của cậu từ lâu đã hẹn hò với một chàng trai khác nay cô ta sắp kết hôn với cậu. Niềm tin có thể có ý định tốt nhưng đối tượng không đáng tin và như thế niềm tin trở thành vô ích. Niềm tin dù ít ỏi nhưng được đặt nơi một đối tượng đáng tin cậy thì vẫn có thể đem lại kết quả. Chẳng hạn, bạn có một niềm tin yếu ớt trên một tảng băng dày, kết quả vẫn rất tích cực: tảng băng sẽ chịu trọng lượng của bạn bất chấp niềm tin của bạn mạnh như thế nào.
Thử nghiệm mức độ đáng tin cậy của đối tượng niềm tin là một lời khuyên hợp lý và chắc chắn. Sự khôn ngoan dẫn chúng ta đến chỗ tìm hiểu sự thật về bất cứ đối tượng nào của niềm tin chúng ta. Nếu đồng hồ chạy sai, chúng ta chỉnh nó lại. Đó là một việc làm khôn ngoan. 1
Xét lại những suy nghĩ trước đây của chúng ta
Một vài ví dụ sau đây sẽ giúp chúng ta xem xét niềm tin như một phần bình thường trong cuộc sống chúng ta. Từ đó chúng ta sẽ quay sang kiểm nghiệm mức độ hợp lý của niềm tin Cơ Đốc cách khách quan nhất có thể được. Tính khách quan chắc chắn được tô điểm do những suy nghĩ trước đây của chúng ta về Cơ Đốc giáo. Những sự kiện nào chúng ta biết về nó? Chúng ta xem xét nó như là điều hợp lý hay không hợp lý? Thích đáng hay không thích đáng? Đối với những sinh viên thì suy nghĩ trước đây của họ được thể hiện rõ ràng qua những câu hỏi họ đặt ra. Một số câu hỏi phần lớn liên quan đến sự thiếu hiểu biết, một số khác là do hiểu lệch lạc nội dung cơ bản của Cơ Đốc giáo. Luôn có những câu hỏi sâu sắc và yếu tố “tại sao” đầy bí ẩn được đặt ra với lòng sốt sắng thật sự.
Suy nghĩ đầu tiên của một người là yếu tố cơ bản. “Những gì bạn nghĩ bạn biết có thể làm bạn đau khổ” là tựa một bài báo của tờ Chicago Tribune. “Ít hiểu biết cũng có thể tác hại đến khả năng tài chính của bạn” là đề mục nhỏ, liệt kê khoảng hơn mười lăm ví dụ về những suy nghĩ ngớ ngẩn thông thường của những nhà đầu tư, như “tôi cố gắng tiết kiệm tiền bạc bằng cách đi mua đồ mỗi khi có hàng hạ giá.” Thiếu hiểu biết về niềm tin Cơ Đốc cũng có thể tai hại như vậy. Lãnh vực nào chúng ta hiểu hết sức rõ ràng về Cơ Đốc giáo và chỗ nào suy nghĩ chúng ta còn ngớ ngẩn?
Ngoài những suy nghĩ trước kia của chúng ta, một áng mây khác che mờ niềm tin chúng ta là “chỉ số tình cảm” hay thường được gọi là E. Q. Dù cho tổ tiên của chúng ta ở Hoa Kỳ hay ở một đất nước nào khác, thường có những kiểu mẫu sai lầm về đời sống Cơ Đốc nhân làm cho chúng ta thất vọng. Chỉ số tình cảm của chúng ta thậm chí lên đến tức giận khi chúng ta nghe đến từ “Cơ Đốc nhân.” Dĩ nhiên chúng ta đều có một sự khó chịu về một vài chuyện nào đó, nhưng sự nhận thức về nó cũng giúp ích cho chúng ta. Mặt khác, có thể chúng ta không có một mối liên hệ nào với các Cơ Đốc nhân hay Cơ Đốc giáo, nên chẳng hiểu biết gì và cũng không có sự khó chịu nào cả. Dù sao khi tìm hiểu những suy nghĩ và cảm xúc nguyên thủy của chúng ta càng nhiều, chúng ta càng có thể xem xét một cách khách quan “trường hợp của Cơ Đốc giáo,” như cách C. S. Lewis dùng.
Cơ Đốc giáo theo Kinh Thánh có nền tảng rất rõ ràng và đầy đủ. Đây không phải là một tôn giáo huyền bí. Nội dung của nó ẩn nấp dưới những biểu tượng kỳ bí nào đó, như học giả R. C. Sproul nói. Theo Sproul, khi ai đó thì thầm với bạn rằng ý nghĩa của cuộc sống là “một cái vỗ tay”, thì đó là huyền bí. Đó không phải là nền tảng suy nghĩ hợp lý. Tất nhiên đó cũng không phải là ý tưởng chúng tôi muốn trình bày về “lối suy nghĩ hợp lý”. 2
Bất cứ một tôn giáo nào cũng nhận rằng mình có những kinh nghiệm thuộc linh suýt soát với chúng ta. Từ thế kỷ 19 vào thời của triết học gia Friedrich Neitzsche đến ngày hôm nay, từ bên ngoài cộng đồng Cơ Đốc đến bên trong, người ta cũng bảo là Đức Chúa Trời đã chết rồi. Chủ nghĩa đạo đức nhân bản đang thu hút người ta mạnh mẽ hơn. Quyển Tôn Giáo Không Mạc Khải (Religion Without Revelation) của Julian Huxley là một dẫn chứng rõ ràng trong việc đề cập đến vấn đề Đức Chúa Trời đã chết. Tính đa nguyên đã chiếm phương tiện thông tin hiện đại trong việc biến thế giới trở nên một nhà. Chúng ta thường nghe những điều đại loại như:
1. Tất cả các tôn giáo đều có giá trị ngang nhau.
2. Những mâu thuẫn giữa các hệ thống tôn giáo được hoàn toàn chấp nhận.
3. Chân lý tuyệt đối không hề hiện hữu.
Cơ Đốc giáo được thử nghiệm một cách khách quan
Triết gia chuyên về phân tích Antony Flew chứng minh rằng đối với những người còn đang tìm kiếm thì những khẳng định tôn giáo không thể kiểm chứng được một cách khách quan cũng chỉ là vô nghĩa mà thôi. Ông dẫn chứng một câu chuyện ngụ ngôn của John Wisdom:
“Lần nọ, có hai nhà thám hiểm đến một khu đất trống trong rừng già. Trong khu đất trống ấy có rất nhiều hoa và cỏ dại. Một nhà thám hiểm nói: “Chắc phải có một người trông vườn chăm sóc cho khu đất này.” Nhưng người kia không đồng ý như vậy, ông ta bảo: “Không hề có ai lập vườn ở đây đâu.” Thế là cả hai cắm trại ở đó để rình xem. Họ không thấy ai cả. ”Có lẽ người làm vườn là một kẻ vô hình chăng? Vậy, họ làm một hàng rào bằng dây kẽm gai. Rồi họ mắc điện vào đó. Họ cũng thả chó canh phòng (vì họ nhớ chuyện Con Người Vô Hình của H. G. Well, tuy không bị nhìn thấy, nhưng có thể bị đánh hơi và sờ chạm được). Nhưng họ không nghe một tiếng kêu nào chứng tỏ có người đã xâm nhập khu đất ấy và bị điện giật. Cũng không hề có sự chuyển động nào trên các đường dây kẽm gai cho thấy người vô hình có leo vào. Bầy chó săn cũng không hề sủa lấy một tiếng. Dầu vậy, nhà thám hiểm tin có người làm vườn, vẫn chưa chịu khuất phục và nói rằng: “Phải có một người làm vườn vô hình mà điện không giật được; phải có một người làm vườn vẫn bí mật đến chăm sóc khu vườn mà ông ấy yêu mến.” Cuối cùng, kẻ hoài nghi đó cũng thất vọng: “Thế thì lời khẳng định ban đầu của mình còn lại cái gì? Người làm vườn mà ta gọi là vô hình, không sờ chạm được, vĩnh viễn mơ hồ kia có khác gì với một người làm vườn tưởng tượng hay với một người làm vườn chẳng bao giờ hiện diện chút nào đâu?” 3
John Montgomery, một học giả Tin Lành, đã nhận xét về câu chuyện nầy: “Trong niềm tin Cơ Đốc chúng ta không chỉ chủ trương suông rằng khu vườn của thế gian này được một Đấng Làm Vườn đầy yêu thương chăm sóc, nhưng chúng ta còn có những kinh nghiệm thực sự về chính Đấng Làm Vườn nầy đã bước vào khung cảnh loài người qua con người Chúa Giê-xu Christ (GiGa 20:14-15), và sự bước vào đó có thể kiểm chứng được qua sự sống lại của Ngài.” 4
Hệ thống chân lý hợp lý
Niềm tin Cơ Đốc nhân ít được xem xét một cách nghiêm túc, nó chỉ được xem như một trong số các chân lý được chứng thực mà không được nhìn nhận dưới khía cạnh là được xây dựng trên một một chân lý được sáng tỏ nào. Chân lý và mê tín khác nào bạn đồng hành.
Tuy nhiên điều ngược lại mới là thật. Chính Kinh Thánh nhấn mạnh tầm quan trọng của quá trình thể hiện hợp lý. Chúa Giê-xu cũng nhấn mạnh điều này với các môn đệ của Ngài: “Ngươi hãy hết lòng, hết linh hồn, hết ý mà yêu mến Chúa, là Đức Chúa Trời ngươi” (Mat Mt 22:37). Toàn bộ con người chúng ta có liên quan đến việc chúng ta đặt niềm tin nơi Ngài, tâm trí, tình cảm và ý chí. Sứ đồ Phao-lô mô tả chính mình như là người “binh vực và làm chứng đạo Tin Lành”, chẳng hạn ông đưa ra một lời biện giải cho niềm tin của mình (Phi Pl 1:7). Tất cả những điều này ngụ ý về một sứ điệp rõ ràng dễ hiểu có thể được hiểu và ủng hộ một cách hợp lý. Một đầu óc không được soi sáng là một đầu óc không bao giờ cởi mở trước chân lý của Đức Chúa Trời, nhưng sự soi sáng đem lại sự hiểu biết hoàn toàn thỏa đáng khi dựa trên hệ thống chân lý hợp lý. Mỗi chúng ta từ lúc thơ ấu cho đến khi trưởng thành đều cần lý luận và giải thích. Hãy nói với một đứa trẻ rằng nó sẽ bị phỏng nếu sờ vào một bếp lò nóng. Bấy giờ nó mới quyết định sờ vào hoặc không sờ vào. Nhưng nó đã được giải thích rồi. Tương tự như thế, sự soi sáng xuất phát từ sự hiểu biết những chân lý Cơ Đốc cơ bản.
Niềm tin của Cơ Đốc nhân luôn luôn đi đôi với chân lý. Và chân lý luôn luôn đối lập với sự giả dối (IITe 2Tx 2:11-12). Phao-lô đã gọi những người không biết Chúa là người “không vâng phục lẽ thật” (RoRm 2:8). Những lời khẳng định như vậy sẽ trở nên vô nghĩa nếu không có một cách nào đó để định nghĩa thật khách quan chân lý là gì. Vì những lý do thực tiễn, nếu điều gì không thể thực hiện được thì chân lý và ngụy lý cũng như nhau. Câu hỏi cơ bản là, chân lý tuyệt đối có hiện hữu không? Chúng ta có một bằng chứng rõ ràng.
Sự tạo dựng trời đất làm sáng tỏ chân lý
Như sứ đồ Phao-lô dẫn chứng, bản thân thiên nhiên cung cấp cho con người đủ thông tin để nhận biết rằng có một Đức Chúa Trời. Trong 1:19, ông nói rằng “Đức Chúa Trời đã tỏ điều đó cho họ rồi.” Rất dễ cho con người thấy Đức Chúa Trời, Ngài không hề giấu mặt. Sau đó Phao-lô bảo chúng ta nhìn vào thiên nhiên. “Những sự trọn lành của Ngài mắt không thấy được... thì từ buổi sáng thế vẫn sờ sờ như mắt xem thấy”, rồi ông tiếp tục kể ra hai phẩm tánh chủ yếu của Ngài vẫn được bày tỏ ngang nhau “Quyền phép đời đời và thần tính của Ngài ” (1:20).
Câu Kinh Thánh ngắn ngủi nhưng hiệu nghiệm này đã giải thích rằng Đức Chúa Trời trông đợi chúng ta tin nơi Ngài dựa trên những bằng chứng đầy đủ. Ngài cho chúng ta trí thông minh và lý luận hợp lý. Ngài đang nói với chúng ta rằng: “Hãy nhìn xem thiên nhiên, ngay cả vũ trụ này, hoặc chính thân thể của con thì con sẽ có bằng cớ về niềm tin nơi Đấng Tạo Hóa.” Tác phẩm “thủ công”, một tuyệt tác đặc biệt của Đấng Tạo Hóa thiên thượng nói cho chúng ta biết về sự chăm sóc tỉ mỉ và công việc liên tục của Ngài trong công trình sáng tạo.
“Quyền phép đời đời” của Ngài không phải là một thuật ngữ dễ thuyết phục trí óc của chúng ta. Bill Hybels cho chúng ta cách nhìn sơ khởi:
Đức Chúa Trời biết hết mọi việc. Không có câu hỏi nào làm Ngài phải lúng túng… nhưng tri thức này còn vượt xa hơn cả những sự kiện hiện thời. Đức Chúa Trời biết tất cả mọi việc vận hành ra sao. Hãy nghĩ về điều đó. Ngài có sự hiểu biết trọn vẹn về tất cả bí ẩn của các ngành sinh vật học, sinh lý học, động vật học, y học, tâm lý học, địa lý học, vật lý học, hóa học, và di truyền học. Ngài biết các quy định của Thiên Đàng, cả những nguyên lý và sự vận hành của mặt trời, mặt trăng và những đám mây. 5
Chúng ta có thể nói rằng những điều trên cho chúng ta một định nghĩa về sự vô hạn, chứ không phải giới hạn như chúng ta. Hơn nữa, Đức Chúa Trời còn biết cả bức tranh tổng quát vẽ mỗi khía cạnh trong đời sống cá nhân của chúng ta nữa.
Nhìn vào bức tranh lớn
Sự kiện này càng động viên chúng ta khám phá những câu trả lời cho việc làm thế nào chúng ta có thể thích hợp với “bức tranh lớn” từ chân trời của Đức Chúa Trời. Tại sao chúng ta ở đây, sống trong gia đình này và ở nơi này? Những việc chúng ta chọn lựa và những gì chúng ta làm mỗi ngày có gì quan trọng không? Làm sao chúng ta lại sống ở đất nước này mà không phải là một đất nước nào khác? Chuyện gì sẽ xảy ra khi chúng ta lìa cõi đời này?
Nhiều chương đã được viết ra dựa trên cái “tại sao” về sự hiện hữu của chúng ta, đây không phải là câu hỏi mới. Thỉnh thoảng đây là những điều mà chúng ta thắc mắc. Trong quyển sách bán chạy nhất, Khái Quát Lịch Sử Của Thời Đại (A Brief History of Time), Stephen Hawking tổng kết cả cuộc đời nghiên cứu và suy gẫm của mình bằng một câu hỏi. Sau khi kết luận những luận điểm của mình về “cái gì” và “như thế nào” của vũ trụ, ông nói với vẻ khao khát: “Giờ đây nếu chúng ta có thể biết được tại sao, thì chắc chắn chúng ta đã có đầu óc của Đức Chúa Trời rồi.” 6
Đối với nhiều người, có thể nào có những câu hỏi riêng tư của “tấm lòng” hoặc có thể là một cảm giác trống trải và mất mác kích thích những câu hỏi như vậy? Một nữ diễn viên nổi tiếng đã diễn tả rất thích hợp cái cảm giác “một khoảng trống trong tâm hồn” đã khiến cô bắt đầu tìm kiếm. Thực chất bức tranh của Đức Chúa Trời cho chúng ta trong Kinh Thánh là đưa cho chúng ta câu trả lời. Chúng ta không cần phải ở trong bóng tối. Có đầy đủ từng chứng cớ chứng tỏ rằng Đức Chúa Trời muốn chúng ta biết câu trả lời.
C. S. Lewis giải thích: “Chúng ta rất dễ tin rằng sợi dây thừng rất chắc khi chúng ta chỉ dùng nó để cột một cái hộp, nhưng giả sử chúng ta phải dùng sợi dây thừng đó để đu mình leo lên một vách núi dựng đứng. Chúng ta sẽ thật sự muốn biết sợi dây thừng đó đáng tin cậy tới mức nào.” 7
Màn kính đạo đức bị che mờ Màn kính đạo đức bị che mờ, hoặc sự mạc khải đầy trí tuệ của Đức Chúa Trời có thể vô tình che mờ sự hiểu biết của chúng ta. Sức kéo của đạo đức có thể trở nên nan giải, quá độ và không chịu từ bỏ chúng ta. Trong một số trường hợp, vấn đề thật sự không phải là con người không thể tin - nhưng mà là họ “sẽ không tin.” Chúa Giê-xu đã thẳng thừng vạch rõ đây chính là cội rễ của vấn đề khi nói chuyện với những người Pha-ri-si sùng đạo, những nhà cầm quyền hợp pháp thời bấy giờ. Ngài bảo họ: “Các ngươi không muốn đến cùng ta để được sự sống” (GiGa 5:40). Sau đó Chúa Giê-xu tiếp tục dạy rằng khi một kết ước đạo đức được thiết lập, nó sẽ đem lại sự hiểu biết cho tâm trí. Thậm chí nó còn đem lại sự quyết tâm loại bỏ những cản trở từ tâm trí. “Nếu ai khứng làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời, thì sẽ biết đạo lý ta có phải là bởi Đức Chúa Trời, hay là ta nói theo ý ta” (7:17).
Những nan đề về trí tuệ được khẳng định mà không được chứng minh thường là màn khói bao phủ sự nổi loạn của đạo đức. Như nhà thơ Emily Dickinson đã viết: “Không ai thất bại trong khoảnh khắc. Trượt ngã - là định luật phá sản.”
Một câu hỏi lạc đề nữa chúng ta thường nghe là: “Nếu Cơ Đốc giáo là hợp lý thì tại sao đa số những người có học thức lại không tin?” Câu trả lời thật giản dị. Họ không tin chính vì một vấn đề giống y như lý do khiến đa số những người không có học thức thường làm. Họ không muốn tin. Đó không phải là một vấn đề của năng lực trí óc, vì có rất nhiều Cơ Đốc nhân xuất sắc trong mọi lãnh vực về nghệ thuật và khoa học. Cuối cùng thì niềm tin cũng chỉ là vấn đề của ý chí. Và Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta những chứng cớ khởi điểm qua công trình sáng tạo của Ngài.
Có một sinh viên nọ nói với tôi rằng tôi đã trả lời thỏa mãn tất cả các câu hỏi của anh. Tôi bèn hỏi: “Vậy anh sẽ trở thành một Cơ Đốc nhân chứ?”
“Không đâu”, anh ta trả lời.
Lúng túng, tôi hỏi: “Sao lại không?”
Anh ta thú nhận: “Thú thật là điều đó sẽ làm xáo trộn cuộc sống hiện tại của tôi.” Anh ta nhận thức được rằng vấn đề thật sự của anh ta nằm ở phương diện đạo đức chứ không phải trí thức.
John Stott thiết lập một thế quân bình khi ông tóm tắt câu chuyện Tin Lành: “Chúng tôi không thể đồng lõa với sự kiêu ngạo về phương diện tri thức của con người, nhưng phải nâng đỡ cho sự ngay thẳng của trí tuệ người ấy.”
Sự nghi ngờ dẫn đến sự sợ hãi
Ngay cả những Cơ Đốc nhân tận hiến cũng đặt vấn đề với niềm tin của mình và tự hỏi không biết điều đó có thật hay không. Sự nghi ngờ có thể đem lại nỗi sợ hãi đối với tâm linh và thường bị đè nén cách bệnh hoạn. Những người sinh ra trong gia đình Cơ Đốc và giáo hội Cơ Đốc thấy rằng họ rất dễ nghi ngờ tính xác thực của những kinh nghiệm thời thơ ấu. Từ nhỏ họ đã chấp nhận sự kiện Cơ Đốc giáo chỉ dựa trên căn bản là sự tự tin và tin tưởng nơi cha mẹ, bạn bè và mục sư. Khi lớn lên và phát triển về phương diện học vấn, thì họ xét lại những sự dạy dỗ trước kia.
Kinh nghiệm như thế rất lành mạnh và cần thiết cho niềm tin đích thực và vững chắc. Không có gì phải sợ hay lo lắng về điều đó. Những lúc tôi đi du lịch tới một chỗ mới, tôi vẫn thường tự hỏi khi nhìn vào đường phố và những con người xa lạ “Little này, làm sao cậu biết là mình không hề bị một chương trình tuyên truyền rầm rộ lôi kéo? Dù sao thì cậu cũng đâu có thấy Đức Chúa Trời, có rờ, có nếm hay cảm biết Ngài đâu.” Và rồi tôi tiếp tục tự hỏi làm sao tôi biết Đức Chúa Trời và Đức Chúa Giê-xu Christ của Kinh Thánh là thật. Tôi luôn quay về với hai yếu tố cơ bản:
Khía cạnh khách quan, ngoại tại, những sự kiện lịch sử về sự phục sinh.
Khía cạnh chủ quan, nội tại, những từng trải cá nhân về Chúa Giê-xu mà tôi đã nhận biết trong chính cuộc đời của mình qua những cuộc giải phẫu nguy kịch và những quyết định khó khăn trong sự nghiệp.
Khi một người, dù già hay trẻ, bắt đầu thắc mắc và Đức Chúa Trời dường như xa cách họ, thì chúng ta nên hoan nghênh sự nghi ngờ ấy như một cách thức để tăng trưởng. Một Cơ Đốc nhân có thể giúp đỡ bằng cách hoan nghênh sự chân thật và thẳng thắn, để tạo ra một bầu không khí cho một người cảm thấy thoải mái để “trút bầu tâm sự” và bày tỏ những nghi ngờ của mình. Nếu không, người đó có thể bị đẩy vào đường cùng, thậm chí họ sẽ thối lui vì cớ họ nghĩ rằng một Cơ Đốc nhân tốt không bao giờ được nghi ngờ. Họ không phải là người ngu ngốc. Thật đáng buồn, tôi đã chứng kiến một vài người gặp phải sự phản hồi chẳng có chút cảm thông nào, họ nhanh chóng sang số và kịch liệt binh vực ý kiến của mình, dầu việc làm đó không xuất phát từ tấm lòng họ. Khi họ thoát ra khỏi áp lực phải tuân theo các hình thức, họ giũ bỏ niềm tin của mình như lột bỏ một cái áo mưa bởi vì nó chưa bao giờ là niềm tin của riêng họ cả.
Nghi ngờ và thắc mắc là bình thường đối với những con người biết suy nghĩ. Thay vì tỏ ra khó chịu, bất mãn, tốt hơn là chúng ta nên lắng nghe người hỏi mình, và nếu có thể, nên xoáy sâu vào câu hỏi hơn nữa. Rồi ta nên đề nghị một lời giải đáp. Vì Cơ Đốc giáo tập trung vào một Đấng vốn là Chân lý nên một cuộc khảo sát tỉ mỉ, cặn kẽ chẳng bao giờ làm hại cho đạo ấy cả.
Đừng hoảng sợ
Nếu chúng ta không có ngay câu trả lời, thiết tưởng không cần gì phải tỏ ra hoảng sợ. Chúng ta có thể tiếp tục tìm kiếm, kết tinh câu hỏi lại và kiểm tra ở những quyển sách chuyên về giải đáp những thắc mắc dường như khó giải đáp. Không có lý gì một câu hỏi mới do một ai đó nghĩ ra tuần trước lại có thể làm cho cả Cơ Đốc giáo phải sụp đổ. Những người sáng suốt đã từng suy nghĩ về những câu hỏi thật sâu sắc của mọi thời đại và đều trả lời được cả.
Chúng ta không cần trả lời thật đầy đủ tất cả các câu hỏi, vì Chúa không hề mạc khải đầy đủ tâm trí Ngài cho chúng ta về mọi vấn đề. “Những sự bí mật thuộc về Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta; song những sự bày tỏ thuộc về chúng ta, và con cháu chúng ta đời đời” (PhuDnl 29:29). Đây không phải là điều để trốn tránh trách nhiệm! Đức Chúa Trời ban cho chúng ta dư dật những hiểu biết để có một nền tảng vững chắc đằng sau niềm tin và cuộc sống của chúng ta. Cơ Đốc giáo dựa trên một niềm tin hợp lý. Nếu dùng cả núi chứng cớ để kiểm tra ý tưởng bạn thì đừng sợ hãi. Ở trường cao đẳng và đại học, khán giả có thể bao gồm 98% những người theo thuyết bất khả tri. Định thần một chút bạn có thể dễ dàng đoán được câu hỏi thường được đặt ra trong phần nửa tiếng đồng hồ. Những câu hỏi có thể đa dạng về mặt từ ngữ, nhưng vấn đề tiềm ẩn đều giống nhau. Sự nhất quán này là cả một nguồn giúp đỡ ích lợi để biết được những câu hỏi trọng tâm, chỗ nào cần mài giũa sự hiểu biết của mình và làm thế nào để mài giũa những tư tưởng trong quyển sách này.
Sự đáp ứng của những người nghi ngờ
Những người nghi ngờ là những người nhìn thấy những vấn đề rắc rối nằm ở đâu. Sau khi được giải đáp cho những thắc mắc của mình, bước kế tiếp là sự quyết định. Không quyết định gì cả tức là quyết định chống lại lập trường Cơ Đốc giáo. Nghi ngờ liên tục về những thông tin đầy đủ có nghĩa là không bỏ cuộc mà tiếp tục tìm kiếm và từ từ bạn sẽ được tưởng thưởng. “Cơ Đốc giáo không phải là một phương thuốc có bằng công nhận sáng chế. Nó nêu lên một loạt những sự kiện để trình bày cho bạn biết vũ trụ như thế nào. Nếu Cơ Đốc giáo là giả dối thì không có một con người thành thật nào muốn tin vào nó hết. Tuy nhiên, nếu nó là có thật, thì mọi con người thành thật đều muốn tin vào nó... Đúng, Cơ Đốc giáo sẽ làm cho chúng ta trở nên tốt hơn - tốt hơn nhiều so với bất cứ điều gì bạn có thể trông đợi!” 8
Chúng ta tin chắc rằng sự tìm kiếm hết lòng của chúng ta sẽ được thưởng. Trong những trang tiếp theo chúng ta sẽ nhấn mạnh một số câu trả lời cho những thắc mắc thường gặp và làm rõ những vấn đề đó. Bạn có thể tin điều này, bỏi vì Cơ Đốc giáo là có thật và hợp lý. Chúa Giê-xu cho chúng ta một lời khích lệ: “Ta đã đến, hầu cho chiên được sự sống và được sự sống dư dật” (Giăng 10:10).
Trích : Vì Sao Chúng Ta Tin ?
Tác giả: Paul E. Little
Đọc thêm!
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)