Năm 1872, ông George Smith, nhơn viên Anh quốc Bảo tàng viện, đã tìm thấy trên các tấm bảng lấy ở thơ viện Assurbanipal, tại Ni-ni-ve, những truyện tích về nạn nước lụt giống hệt truyện tích trong Kinh Thánh. Người ta đã sao lại những truyện tích nầy trên các tấm bảng có từ triều đại thứ nhứt của thành U-rơ, tức là thời gian giữa nạn nước lụt và đời Áp-ra-ham. Người ta đã tìm thấy nhiều tấm bảng đó, trên đó thường lặp lại mấy lời nầy: "Nước Lụt" -- "Thời kỳ trước nạn nước lụt" -- "Các bi văn của thời kỳ trước nạn nước lụt." Giác trụ bằng đất sét ghi tên 10 vua trường thọ trị vì trước nạn nước lụt, sau khi ghi tên vua thứ 10, có thêm rằng: "Bấy giờ nước lụt phá hủy đất."
Nô-ê của xứ Ba-by-lôn thuật truyện tích nước lụt
Đây là một phần của tài liệu gọi là: "Bản Anh hùng ca của Gilgamesh. " Gilgamesh làm vua thứ 5 của triều đại Ê-rết, là một trong những triều đại đầu tiên sau nạn nước lụt. Bản anh hùng ca nầy tường thuật các cuộc phiêu lưu của ông; trong một cuộc phiêu lưu ấy, ông đã tới thăm hòn đảo là nơi cư trú của Utnaspishtim, Nô-ê của xứ Ba-by-lôn, để tìm kiếm bí quyết được sự sống đời đời mà ông tưởng Utnaspishtim biết rõ. Cuộc viếng thăm nầy được mô tả trên một cái ấn mới tìm thấy ít lâu nay tại Tell Billa, gần Ni-ni-ve. Trong lời giải đáp cho Gilgamesh, Utnaspishtim (Nô-ê) kể lại truyện tích nước lụt và mình đã thoát nạn thể nào. Truyện tích của ông được ghi trên nhiều tấm bảng và tấm bảng nầy có chi tiết khác tấm bảng kia. Đại ý như sau đây: Hội nghị các thần quyết định làm nước lụt. Các thần nói rằng: "Nguyện tội lỗi của tội nhân đổ trên mình nó! Hỡi người ở Shuruppark, hãy đóng một chiếc tàu để cứu mạng ngươi! Hãy đóng tàu có 6 từng, mỗi từng có 7 phòng. Bên trong và bên ngoài phải trét nhựa lịch thanh. Hãy thả tàu xuống biển cả. Hãy đem vào mọi loài thú vật để làm giống." Tôi đã dùng mọi vật liệu mình có để đóng tàu. Tôi đem vào đó bạc, vàng, cùng mọi loài sanh vật mình có. Tôi cùng gia đình và bà con, họ hàng lên tàu. Tôi đóng cửa lại. Đã tới giờ định. Tôi ngắm xem ngày ấy hiện ra, thật là khủng khiếp. Ánh sáng đổi ra tối tăm hết. Mưa sa dồn dập, bão tố gào thét, chẳng khác gì một trận tấn công loài người. Chiếc tàu rung rinh. Các thần khóc lóc. Tôi nhìn ra biển. Cả loài người biến thành đất sét, và giống như những khúc gỗ trôi giạt đó đây. Bão tố dứt, nước lụt đã hết, tàu tấp trên núi Nazir. Ngày thứ bảy, tôi thả một con bò câu ra, và nó quay về. Tôi thả một con chim yến ra, nó cũng quay về. Tôi thả một con quạ ra; nó đậu xuống, đi đi lại lại, kêu lên, mà không quay về. Tôi ra khỏi tàu và dâng một tế lễ. Các thần ngửi mùi thơm và nói rằng: "Sẽ không làm như vậy nữa." Lại rằng: "Trước kia, Utnaspishtim là một người; bây giờ hãy cho hắn được bất tử y như chúng ta, hãy cho hắn ở thật xa, nơi các cửa sông."
Bí Chú Khảo Cổ: Lớp do nạn nước lụt làm lắng xuống tại U-rơ Dầu những truyền thoại về nạn nước lụt nầy pha lẫn chủ nghĩa đa thần và một phần truyện thần tiên rõ rệt, nhưng cũng tỏ ra rằng nạn nước lụt đã thành một sự thực in sâu trong trí nhớ của những người ở xứ Ba-by-lôn thời cổ. Ngày nay, cách đây mấy năm, người ta đã tìm thấy một lớp bùn, chắc do nạn nước lụt làm lắng xuống, tại ba chỗ: Tại U-rơ, cách vị trí (theo truyền thoại) của vườn Ê-đen 12 dặm; tại Fara, nơi cư trú (theo truyền thoại) của Nô-ê, cách 60 dặm nữa ngược dòng sông; và tại Kish, một vùng ngoại ô của Ba-by-lôn, cách thêm 100 dặm nữa ngược dòng sông; có lẽ tại một chỗ thứ tư nữa, là thành Ni-ni-ve, phải đi 300 dặm nữa ngược dòng sông mới tới.
Năm 1929, tại U-rơ, nơi sanh trưởng của Áp-ra-ham, một phái đoàn hỗn hợp của Bảo tàng viện Đại học đường Pennsylvania và Anh quốc Bảo tàng viện, dưới quyền điều khiển của Tấn sĩ C.L. Woolley, đã tìm thấy, gần chơn các gò nỗng U-rơ, bên dưới nhiều lớp chứng tỏ có loài người chiếm cứ, một vùng đất sét lớn và cứng, do nước lụt làm lắng xuống, dày chừng 2 thước rưỡi. Vùng đất sét nầy không có lẫn di vật của loài người, nhưng có di tích của một đô thị khác chôn vùi bên dưới. Tấn sĩ Woolley nói rằng 2 thước rưỡi đất lắng khiến ta hiểu rằng nước đã ở đó sâu lắm và lâu lắm; lại nữa, nước không thể tới đó do các dòng sông thường chảy, nhưng chỉ do một nạn nước lụt lớn lao như Kinh Thánh đã mô tả. Nền văn minh ở dưới lớp bùn do nước lụt làm lắng xuống đó khác hẳn nền văn minh ở trên lớp ấy, đến nỗi nó cho Tấn sĩ Woolley nhận thấy "dòng lịch sử đã thình lình có sự gián đoạn kinh khủng." (Xem sách "Ur of the Chaldees "(1) Của Woolley ).
Bí Chú Khảo Cổ: Lớp do nạn nước lụt làm lắng xuống tại Kish
Kish (Ukheimer, El-Ohemer, Uhaimir ) ở phía Đông Ba-by-lôn, trên một khu lòng sông Ơ-phơ-rát hiện nay đã khô cạn. Theo các tấm bảng đã ghi, thì Kish là đô thị đầu tiên được xây dựng lại sau nạn nước lụt, trên chính vị trí cũ.
Bản đồ số 22
Năm 1928-1929, một phái đoàn hỗn hợp của Bảo tàng viện Field và Đại học đường Oxford, do Tấn sĩ Stephen Langdon điều khiển, đã tìm thấy lớp đất sét sạch sẽ do nước làm lắng xuống, giữa những lớp dưới của di tích thành Kish. Lớp đất sét nầy dày 1 thước 60 phân, tỏ ra đã có nước lụt lớn lắm. Người ta thấy lớp đất sét do nước lụt làm lắng xuống ở ngay trên di tích của vách thành. Nó không chứa đồ vật bất cứ thuộc loại nào. Tấn sĩ Langdon bàn rằng có thể là nước lụt đã chép trong Kinh Thánh. Những di vật ở dưới lớp đất sét nầy bày tỏ một nền văn hóa khác hẳn. Trong số những di vật tìm thấy, có một chiếc xe ngựa bốn bánh, bánh xe làm bằng gỗ và đóng đinh đồng, cùng với các bộ xương của những thú vật kéo nó nằm giữa các càng xe. Xem sách "Field Museum Oxford University Expedition to Kish, " của Henry Field, quyển 28.
Bí Chú Khảo Cổ: Lớp do nước lụt làm lắng xuống tại Fara
Fara (Shuruppark, Sukkurru ), nơi cư trú của ông Nô-ê xứ Ba-by-lôn, giữa đường Ba-by-lôn và U-rơ. Ngày xưa ở trên bờ sông Ơ-phơ-rát; ngày nay ở cách 40 dặm về phía Đông. Đây là một nhóm gò nỗng thấp, bị cát của sa mạc dồi dập. Năm 1931, Tấn sĩ Eric Schmidt, nhơn viên Bảo tàng viện Đại học đường Pennsylvania, đã đào bới Fara. Ông tìm thấy di tích của ba đô thị: Đô thị ở trên hết, đồng thời với triều đại thứ 3 tại U-rơ; đô thị ở giữa là của dân Sumériens thượng cổ; còn đô thị ở dưới cùng thuộc về thời kỳ trước nạn nước lụt.
Lớp do nước lụt làm lắng xuống ở giữa đô thị chính giữa và đô thị dưới cùng. Đây là lớp bùn màu vàng, tức là cát trộn lẫn với đất sét; chắc chắn là phù sa do nước làm lắng xuống và đóng cứng lại. Không có di tích tỏ ra loài người đã cư trú. Dưới lớp do nước lụt làm lắng xuống còn có một lớp than và tro, những cái sót lại của một nền văn hóa đã biến ra màu sẫm, có lẽ là di tích của vách tường, đồ gốm tô màu, những bộ xương, ấn hình trụ, ấn dùng đóng dấu, nồi, chảo, bình, với một hình thái tỏ ra rằng dân chúng đã "vội vã dời khỏi nhà, bỏ lại hết tài sản." (Hãy xem "University Museum Journal, " tháng 9, 1931).
Cũng tại Ni-ni-ve nữa chăng? Trong tạp chí "Annals of Archaeology and Anthropology, " quyển XX, trang 134-35, ông Mallowan, quản đốc công cuộc đào bới của Anh quốc Bảo tàng viện tại Ni-ni-ve (1932-33), có mô tả việc đào một cái hầm tại Gò nỗng Lớn, từ đỉnh tới đất chưa khai phá chừng 81 thước tây. Ông tuyên bố rằng 63 thước trong số 81 thước đó gồm năm lớp cư trú tiền sử. Lại nữa, chừng nửa đường, giữa lớp thứ hai và lớp thứ ba tính từ dưới lên, có một lớp dày chừng 2 thước rưỡi, gồm những lớp bùn nhớt và cát sông liên tiếp nhau, có 13 ngấn đặc biệt. Theo ý kiến ông, nó tỏ ra đã có một loạt mùa mưa rất lớn. Đồ gốm ở dưới lớp ướt và đồ gốm ở trên lớp ướt khác nhau rõ rệt. Đó có phải là vật do Đại hồng thủy làm lắng xuống chăng?
TKLK
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Cám ơn bạn đã đọc bài viết. bạn có nhận xét gì về bài viết và quan điểm của bạn hãy để lại vài lời chia sẻ cùng mọi người. Xin lưu ý bạn, các nhận xét không có tính góp ý xây dựng sẽ bị xoá ngay. Các nội dung gõ bằng tiếng Việt, có dấu rõ ràng sẽ không làm người khác hiểu lầm. Xin trân trọng cảm ơn bạn đã ghé thăm blog.Chúa ban phước cho bạn!