Người ta đã xác định được những đô thị ghi trên đây là nơi trị vì của các vua trước nạn nước lụt, trừ ra Badgurgurru. Cuộc đào bới di tích của những đô thị nầy và của nhiều đô thị khác trước nạn nước lụt, đã đem ra ánh sáng nhiều đặc điểm của sự sanh hoạt trước nạn nước lụt và đã cho ta thấy thế giới của những đoạn đầu sách Sáng thế ký là xác thực.
Trong số các đô thị trước nạn nước lụt mà người ta đào bới lên có: Eridu, 'Obeid, Ê-rết (SaSt 10:10), Sura, Tepe, Gawra, U-rơ, Kish, Fara (Shuruppak ), Sippar (A-cát -- 10:10), Larsa, Jemdet Nasr. Nhờ di tích của những đô thị nầy, các nhà khảo cổ đã tiến đến gần sát khởi điểm đời sống định cư tại xứ Ba-by-lôn.
Trong số di vật của những dân tộc trước nạn nước lụt mà người ta tìm thấy ở các đóng hoang tàn nầy, có đồ gốm tô màu; đồ dùng bằng đá lửa; đồ dùng bằng hắc diệu thạch (obsidienne ); bình bằng lam ngọc; rìu bằng đồng; gương soi bằng đồng; cuốc; lưỡi liềm; các thứ đồ dùng bằng đá, đá lửa, đá thạch anh; lưỡi câu; các kiểu thuyền; một lò nung ở dưới đất; nhiều mẫu đồ gốm hóa thành pha-lê tuyệt đẹp; thuốc mà phụ nữ thời tiền sử dùng để kẻ lông mày và mí mắt; di tích bằng gạch của các miễu thờ, -- gạch nầy tô màu đỏ hoặc trát hồ; đồ gốm có vẽ hình màu rất đẹp, như mẫu kỷ hà học phức tạp, chim, một cái xe ngựa; và những công trình kiến trúc chứng tỏ "một nền văn minh tấn bộ lạ lùng."
6:1-8 -- Tội ác thời trước nạn nước lụt
"Các con trai của Đức Chúa Trời " (6:2)
Người ta tưởng rằng các con trai nầy hoặc là thiên sứ sa ngã mà thơ IIPhi 2Pr 2:4 và Giu-đe 6 có nói đến, hoặc là những thủ lãnh trong gia tộc Sết đã cưới gả lẫn lộn với dòng dõi Ca-in không kính thờ Đức Chúa Trời. Những cuộc hôn nhơn trái lẽ thường nầy, bất cứ là thể nào, cũng đã làm cho trái đất đầy dẫy bại hoại và hung bạo.
Đức Chúa Jêsus kể nạn nước lụt là một thực sự lịch sử, và Ngài đã ví sánh ngày tái lâm của Ngài với thời kỳ Nô-ê (Mat Mt 24:27-29). Những việc đang xảy ra trên thế giới ngày nay khiến chúng ta tự hỏi phải chăng chính lúc nầy, thời kỳ Nô-ê có thể tái diễn?
Số "120 năm" ở SaSt 6:3 dường như chỉ về khoảng triển hạn nạn nước lụt. Hoặc nó cũng có nghĩa là đời người bị rút ngắn, chớ không lâu dài như có chép ở đoạn 5 nữa.
"Dòng dõi của Nô-ê " (6:9 đến 9:28)
Đây là tài liệu thứ tư trong số các tài liệu hợp thành sách Sáng thế ký. Tài liệu nầy gồm truyện tích nạn nước lụt mà Nô-ê đã thuật và có lẽ cũng đã ghi chép, rồi do Sem truyền lại cho Áp-ra-ham.
6:9-18 -- Nô-ê và chiếc tàu
Chiếc tàu dài chừng 140 thước tây, rộng chừng 23 thước tây, và cao chừng 14 thước tây. Nó có ba từng, chia làm nhiều phòng, và có cửa sổ chung quanh mái. Có người tính rằng tàu chở nặng được chừng 40 ngàn tấn. Nó lớn bằng những chiếc tàu vượt biển ngày nay. Loài người vốn sống trên bờ một con sông lớn, nên đóng tàu là một trong những công tác đầu tiên của họ. Những tấm bảng chữ tiết hình tỏ ra rằng lúc khởi đầu lịch sử, dân xứ Ba-by-lôn chuyên du hành trên sông và biển. Theo truyền thoại của xứ Ba-by-lôn, thì Nô-ê ở tại Fara, trên sông Ơ-phơ-rát, cách vị trí vườn Ê-đen chừng 70 dặm về phía Tây bắc. Vậy, từ khi còn thơ ấu, Nô-ê chắc đã thông thạo việc đóng tàu và du hành trên sông.
6:19 đến 7:5 -- Các thú vật
6:19-21 và 7:2 chép rằng phải đem vào tàu bảy cặp của mỗi loại thú vật tinh sạch, còn những thú vật khác thì mỗi loài chỉ đem vào một cặp thôi. Có người tính rằng trong tàu có đủ chỗ cho 7000 loài thú vật. Khi tập hợp thú vật, chắc họ đã lựa chọn những con còn non. Vả, người ta cũng nói rằng thường khi thú dữ cảm thấy trước một tai họa sắp xảy ra, và trở nên hiền lành.
Đóng tàu, tập hợp thú vật và tích trữ lương thực, thật là một công việc lớn lao! Nô-ê và ba con trai ông không thể làm việc ấy một mình. Ông là cháu nội của của Mê-tu-sê-la và chắc nội của Hê-nóc, nên theo truyền thoại xứ Ba-by-lôn, ông có thể làm vua một thành và dùng hàng ngàn người làm công việc ấy. Có lẽ ông đã dành phần lớn 120 năm kia để làm việc ấy. Chắc ông bị chúng chế giễu luôn, nhưng cứ mạnh mẽ trong đức tin (IIPhi 2Pr 2:5, HeDt 11:7).
SaSt 7:6 đến 8:19 -- Nước lụt
"Các nguồn của vực lớn nổ ra, và các đập trên trời mở xuống" (7:11). Thung lũng sông Ơ-phơ-rát hầu như có thể gọi là eo đất của đông bán cầu, tại đó Địa Trung Hải và Ấn Độ dương đến gần nhau, và gần chia Phi Châu ở phía Nam với Âu Châu và Á Châu ở phía Bắc. Xứ Ạc-mê-ni có nhiều núi non gần giống như một quần đảo, có biển Caspienne, Hắc Hải ở phía Bắc, Địa Trung Hải ở phía Tây, vịnh Ba Tư và Ấn Độ dương ở phía Nam. Nếu một đại tai biến làm cho đất vùng nầy sụt xuống, thì nước bèn từ các biển trên đây tràn vào, cũng như mưa từ trời đổ xuống.
Phạm vi của nước lụt
"Hết thảy những ngọn núi cao ở dưới trời đều bị ngập... Các xác thịt hành động trên mặt đất đều chết ngột" (7:19, 21). Chắc đây là chính lời Sem đã dùng để thuật lại hoặc viết ra truyện tích nước lụt cho các con và cháu biết. Ông thuật theo điều mắt mình thấy. Chúng ta phải giải thích lời ông theo môn địa dư riêng của ông, hay là theo môn địa dư kim thời? Cả loài người bị tiêu diệt, trừ ra Nô-ê và gia đình ông. Muốn tiêu diệt loài người, nước lụt chỉ cần bao phủ miền đất có người ở. Nếu ta nhìn nhận truyện tích Kinh Thánh, thì chỉ có Mười thế hệ kể từ A-đam, là người thứ nhứt. Vậy, Một gia đình, trong Mười thế hệ, với những phương tiện du lịch thượng cổ, sao hay ở khắp mặt đất được? Có lẽ lắm, loài người chưa tràn ra xa hơn lưu vực sông Ơ-phơ-rát. Tuy nhiên, có người tưởng nước lụt thật đã bao phủ cả địa cầu mà ta được biết ngày nay, tức là địa cầu mà bề mặt trải qua cuộc biến cải lớn lao sau chót lúc chấm hết thời kỳ băng giá.
Bản đồ số 21
Thời gian ở trong tàu
Nô-ê vào tàu 7 ngày trước khi trời bắt đầu mưa (7:4, 10). Trời bắt đầu mưa ngày 17, tháng 2, năm thứ 600 của đời Nô-ê (7:11). Mưa sa trọn 40 ngày, đêm (7:12). Nước bao phủ mặt đất 150 ngày (7:24, 8:3). Ngày 17, tháng 7, tàu tấp xuống. Ngày 1, tháng 10, chót núi lộ ra, mắt thấy được (8:5). Giở mui tàu ngày 1, tháng giêng, năm 601 của đời Nô-ê (8:13). Ra khỏi tàu ngày 27, tháng 2 (8:14-19). Ở trong tàu nổi trên nước 1 năm, 17 ngày; ở trong tàu tấp trên núi 7 tháng.
Núi A-ra-rát
Sau khi trôi giạt xa nơi đã đóng chừng 500 dặm, tàu bèn tấp xuống một đỉnh trong dãy núi xứ Ạc-mê-ni, gọi là A-ra-rát, cách Ni-ni-ve 200 dặm về phía Bắc. Núi A-ra-rát cao chừng 5100 thước. Dưới chơn núi có đô thị tên là Naxuana, hoặc Nakhichevan, và người ta tưởng phần mộ Nô-ê ở đây, vì tên nầy nghĩa là: "Nô-ê định cư tại đây."
8:20 đến 9:17 -- Cái mống
Nếu theo như một vài nhà địa chất học suy tưởng, đã có nhiều lần nước lụt trước nạn Đại hồng thủy nầy vì cớ mặt đất thường bị biến cải, thì với một khí hậu nóng hơn sanh ra mật độ ẩm ướt trong bầu không khí, sự thay đổi địa chất lớn lao nầy có thể kết quả làm cho khí trời trong trẻo hơn, thấy rõ cái mống được. Đức Chúa Trời đã chỉ định cái mống làm dấu hiệu cho giao ước Ngài lập với loài người rằng sẽ không có nạn nước lụt như vậy nữa (9:8-17). Sau nầy trái đất sẽ bị hủy diệt bằng lửa (IIPhi 2Pr 3:7).
SaSt 9:18-28 -- Lời tiên tri của Nô-ê (9:25-27)
Dòng dõi của Cham sẽ là những chủng tộc tôi tớ; dòng dõi của Sem sẽ bảo tồn sự hiểu biết Đức Chúa Trời chơn thật; các chủng tộc Gia-phết sẽ có phần rộng lớn nhất của thế giới, và sẽ thay thế các chủng tộc Sem để giảng dạy về Đức Chúa Trời. Lời tiên tri nầy được ứng nghiệm khi dân Y-sơ-ra-ên chiếm xứ Ca-na-an, người Hy-lạp chiếm thành Si-đôn, và người La-mã chiếm xứ Carthage. Từ đó tới nay, các chủng tộc Gia-phết làm bá chủ thế giới và trở lại tin thờ Đức Chúa Trời của Sem; còn các chủng tộc Sem đã chiếm một địa vị tương đối không quan trọng, và các chủng tộc Cham ở địa vị tôi tớ. Thật là một lời tiên tri lạ lùng về lịch sử!
Phúc trình tìm được chiếc tàu Nô-ê
Trong một số ấn phẩm có báo cáo rằng ngay trước cuộc cách mạng Bôn-sơ-vích, một nhóm phi công Nga quả quyết rằng đã thấy sườn chiếc tàu lớn ở trên băng hà đông đặc của núi A-ra-rát, không sao tới gần được. Họ đã phúc trình sự khám phá ấy với chánh phủ Nga. Liền đó, Nga Hoàng cử một phái đoàn đi; họ tìm thấy chiếc tàu, bèn đo, vẽ và chụp hình. Chính lúc đó, chánh phủ của Nga Hoàng bị phe Bôn-sơ-vích vô thần lật đổ, và những bản phúc trình ấy không hề được công bố. Chúng ta hãy hy vọng rằng chẳng bao lâu sẽ có cuộc điều tra về chiếc tàu Nô-ê.
Truyền thoại của xứ Ba-by-lôn về nạn nước lụt
Theo như Berosus kể lại (300 năm T.C.), các tài liệu lưu trữ trong miễu thờ Marduk, ở thành Ba-by-lôn, có ghi nhắc truyện tích nầy. Một vua, tên là Xisuthros, đã được một thần cảnh cáo phải đóng tàu, đem bạn hữu, bà con, mọi loài thú vật vào đó, cùng đủ thứ lương thực cần thiết. Liền đó, vua nầy đóng một chiếc tàu rất lớn, trên cạn xứ Ạc-mê-ni. Khi nước lụt rút rồi, vua thả nhiều chim ra; đến lần thứ ba, chúng không trở lại nữa. Vua bèn ra khỏi tàu, dựng một bàn thờ và dâng tế lễ. Một bản cũ hơn của truyền thoại nầy có ghi trên những Tấm Bảng Nước Lụt mà George Smith tìm được năm 1872 tại Ni-ni-ve.
Những truyền thoại khác
Người Ai-cập có một truyền thoại rằng có lần các thần đã tẩy uế trái đất bằng một Đại hồng thủy, chỉ có mấy người chăn chiên chạy lên núi thoát nạn.
Truyền thoại Hy-lạp: Deucalion được cảnh cáo rằng các thần sắp làm nước lụt trên trái đất vì cớ sự gian ác gớm ghê của nó. Ông bèn đóng một chiếc tàu, và tàu tấp trên núi Parnassus. Ông thả một con bò câu ra hai lần.
Truyền thoại Ấn-độ: Manu được cảnh cáo, bèn đóng một chiếc tàu, nhờ đó một mình ông thoát nạn nước lụt tiêu diệt muôn loài.
Truyền thoại Trung Hoa: Truyện kể rằng Fa-He, người sáng lập nền văn minh Trung Hoa, đã cùng vợ, ba con trai và ba con gái thoát nạn nước lụt xảy ra vì cớ loài người đã dấy nghịch cùng Thượng Đế.
Truyền thoại nước Anh: Các tế sư (Druides ) kể một thần thoại rằng thế giới lại có dân ở là do một tộc trưởng công bình, đạo đức đã nhờ ở trong chiếc tàu lớn mới thoát khỏi nạn nước lụt của Đấng Chí Cao làm ra để hủy diệt loài người gian ác.
Dân miền Polynésie: (Úc Châu): Có truyện tích về một nạn nước lụt, có 8 người nhờ chiếc xuồng mà thoát nạn.
Dân Mễ-tây-cơ: Một người cùng vợ con nhờ chiếc tàu mà được cứu khỏi nạn nước lụt bao phủ trái đất.
Dân Pérou: (Nam Mỹ Châu): Một người nam và một người nữ được cứu trong một cái thùng nổi trên nước lụt.
Người Da đỏ ở nước Mỹ: Có nhiều thần thoại, theo đó, 1, 3, hoặc 8 người đã được cứu trong chiếc tàu nổi trên nước ngập ngọn núi cao.
Đảo Greenland: Có lần trái đất nghiêng đi, mọi người chết đuối, trừ ra một người nam và một người nữ; về sau, họ lại sanh ra người trên mặt đất. Xin xem quyển "International Standard Bible Encyclopaedia. "
Truyền thoại phổ thông
Người Ba-by-lôn, A-si-ri, Ai-cập, Ba-tư, Ấn-độ, Hy-lạp, Trung-hoa, người xứ Phrygie, dân đảo Fiji, người Esquimaux, thổ dân Mỹ-châu, người Da-đỏ, người Ba-tây, dân xứ Pérou, và mọi nhánh của toàn thể loài người (Sémitique, Aryen, Turanien ) đều có những truyền thoại về một Đại-hồng thủy tiêu diệt cả loài người, trừ ra một gia đình. Những truyền thoại nầy in sâu vào trí nhớ của tổ tiên mọi chủng tộc đó trước khi họ phân rẽ nhau. "Ta chỉ có thể hiểu những thần thoại nầy nếu giả định rằng một biến cố như vậy thật đã xảy ra. Một sự tin tưởng phổ thông dường ấy đã không phát sanh từ một yếu tố trực giác của bổn chất chúng ta, ắt phải căn cứ trên một thực sự lịch sử.
TKLK
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Cám ơn bạn đã đọc bài viết. bạn có nhận xét gì về bài viết và quan điểm của bạn hãy để lại vài lời chia sẻ cùng mọi người. Xin lưu ý bạn, các nhận xét không có tính góp ý xây dựng sẽ bị xoá ngay. Các nội dung gõ bằng tiếng Việt, có dấu rõ ràng sẽ không làm người khác hiểu lầm. Xin trân trọng cảm ơn bạn đã ghé thăm blog.Chúa ban phước cho bạn!