Trần Văn Toàn
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 4 - 2003
Khi ta muốn nói đến một sự vật nào đó trong thiên nhiên, một sự kiện nào đó trong lịch sử, thì phải
đặt cho nó một tên gọi. Có thế khi
dùng tên ấy để nhắc đến nó trong
những hoàn cảnh khác nhau, ta mới
chắc được rằng ta vẫn nói về sự vật
hay sự kiện ấy, mà người nghe cũng
nhận ra như thế.
Nếu mỗi lúc lại dùng một tên khác mà gọi, thì người
nghe làm thế nào cùng biết được ta
vẫn nói về một sự việc, một sự kiện,
và rồi chính ta cũng không nhận ra
được nữa. Vì, trừ những tên riêng ra,
thì mỗi tên gọi có công dụng làm cho
ta và người khác nhận định sự việc
dưới một khía cạnh nhất định nào đó.
Chính vì thế mà các khoa học đều
phải xác định danh từ chuyên môn,
phải có chính danh, để ai nấy đều rõ
ta muốn nói về cái gì. Danh từ
chuyên môn trong các khoa học
thường được định nghĩa một cách
thực dụng, vì căn cứ vào những tác
động và những kinh nghiệm có thể
đo lường được, để ai nấy đều làm
được như nhau và cùng hiểu đích xác
như nhau. Đó là lối định nghĩa
khách quan. Nhưng những danh từ
đó, nhất là khi phiên dịch từ ngoại
ngữ, nếu không biết lựa chọn cho
chính xác, thì làm cho người nghe,
người đọc hiểu sai hẳn đi.
Người Việt chúng ta, khi nói về
các nhân vật, thường không bỏ được
cái thói quen, là thêm vào tên gọi
những tiếng nói lên tình cảm riêng
của mình. Ví dụ khi muốn tỏ ra lòng
kính trọng (thật hay giả, cũng vậy)
thì thêm chữ “cụ”, “ngài”, v.v…; nếu
muốn tỏ ý khinh bỉ thì thêm những
chữ “thằng”, “tên”.
Các sử gia nghiên cứu ở Việt Nam
về đạo Thiên Chúa, thường gặp thấy
trong sách vở nhiều tên gọi khác
nhau, như: đạo Đức Chúa Trời, đạo
Gia Tô, đạo Cơ Đốc, đạo Hoa Lang,
đạo Khirixitô, đạo Kirixitô, đạo Kitô,
rồi đạo Công giáo nữa. Những tên
gọi khác nhau ấy, chắc gì có cùng
một nghĩa như nhau. Cho nên vấn đề
là phải gọi thế nào cho đúng, cho
chính danh.
Cách gọi tên đạo Thiên Chúa của
người Trung Hoa cũng rất lúng túng,
nhất là khi người ngoại đạo đặt tên
cho nó. Ví dụ trong buổi đầu, vào thế
kỉ XVI, người ta gọi là thập tự giáo.
Trong một cuốn từ điển in tại Trung
Hoa, tôi thấy dịch chữ christianisme
là Cơ Đốc giáo, nhưng lại dịch chữ
Catholicisme là Thiên Chủ giáo, và
chữ Protestantisme là Gia Tô giáo.
Cũng không trách được: chính vì hiểu
biết mập mờ, cho nên phân loại lộn
xộn, gọi tên không chính danh. Vì
thế ta không nên cứ thấy người
Trung Hoa dịch thế nào thì theo như
thế. Bên Việt Nam ta quen gọi
Catholicisme là đạo Công giáo, và
Protestantisme là đạo Tin Lành. Như
thế có phần đúng hơn, nhưng không
phải là không có chỗ thiếu chính
xác, gây nhiều thiên kiến, như tôi sẽ
trình bày sau đây.
Thiết tưởng muốn gọi tên cho
đúng thì người trong cuộc, để hiểu
biết rõ hơn về đạo của mình, phải
đứng ra giải thích cho rõ nghĩa và
đề nghị tên gọi cho đúng ý. Có thế
mới tránh được những cách gọi lầm,
đưa đến những lối hiểu sai trong khi
tìm hiểu và nghiên cứu. Đó là dự
định của tôi trong bài này.
Những cách gọi tên một tôn giáo
Theo thói quen, người ta có nhiều
tiêu chuẩn để gọi tên một tôn giáo,
một chi nhánh hay một tông phái.
Cách thứ nhất là gọi theo tên vị
giáo tổ, hay vị đã khởi xướng ra
giáo phái. Ví dụ: Khổng giáo, Lão
giáo, Phật giáo, đạo Mahômét
(Mohammed), đạo Luther, đạo
Calvin,v.v…
Cách thứ hai là gọi tên theo đối
tượng. Đạo thờ vị nào thì gọi theo
tên vị đó. Ví dụ: đạo Bàlamôn, đạo
Siva, đạo Phật, đạo Cao Đài, Thần
đạo, đạo Thiên Chúa,v.v…
Cũng có khi lại gọi theo tên của
dân tộc theo đạo. Ví dụ: ấn (Độ) giáo,
Hồi giáo (người Hồi ở Tây- Bắc
Trung Hoa theo đạo Mahômét), Anh
giáo (người nước Anh theo một tông
phái của đạo Thiên Chúa). Tuy vậy,
người tín đồ có thể ý thức được rằng
đạo mình theo không phải là của
riêng dân tộc nào, là đạo ai cũng có
thể và nên theo. Đó là lúc nảy ra ý
thức truyền giáo. Truyền giáo để
chia sẻ với người khác những niềm
tin mà mình cho là cao quý nhất.
Như thế đủ biết là một tôn giáo có
thể có nhiều tên gọi. Ví dụ đạo
Mahômét (gọi theo tên vị giáo tổ)
còn gọi là đạo Hồi hồi, hay Hồi giáo
(vì là đạo của người Hồi theo), lại
cũng có tên là đạo Islam (tên chỉ thái
độ tuyệt đối quy phục Thiên Chúa);
còn đạo do giáo tổ Giêsu, có biệt hiệu
là Christos, truyền bá, thì người
Châu Âu gọi là Chritianisme; người
Trung Hoa có hai tên gọi: gọi theo
tên vị giáo tổ là Yesu, đọc theo kiểu
Hán – Việt là đạo Giatô, gọi theo biệt
hiệu phiên âm là Jilisisu (Kilisitu),
đọc theo kiểu Hán – Việt là Cơ lợi tư
đốc, gọi tắt là đạo Cơ Đốc; còn ở Việt
Nam thì ngay từ buổi đầu đã phiên
âm là đạo Khirixitô hay là Kirixitô,
gọi tắt là Kitô.
“Đạo” hay là “tôn(g) giáo”?
Trong truyền thống văn hoá của
Trung Hoa không có sẵn từ ngữ nào
để phiên dịch cho đúng từ ngữ
religion của người Châu Âu. Học giả
Léon Vandermeersch, chuyên gia về
văn hoá Trung Hoa có viết: “Ngay từ
ngữ đó cũng không có trong chữ
Hán cổ điển, kiểu nói zong-jiào (tông
giáo) là một từ ngữ cũng mới được
đặt ra, trong kiểu nói ấy ta chỉ thấy
có chữ jiào (giáo là dạy), nhưng nó
không phải là từ ngữ riêng về tôn
giáo. Còn về những lễ nghi trong
Khổng giáo, thì chữ lỉ (lễ) dùng để
chỉ nó, lại không thể dùng để chỉ các
lễ nghi trong tôn giáo hiểu theo
nghĩa của Châu Âu, vì thế cả Phật
giáo lẫn Lão giáo cũng đều bỏ,
không dùng đến nó”.
Tuy là mới được đặt ra nhân dịp
tiếp xúc với người Châu Âu, nhưng
từ tôn giáo chúng ta dùng đã quá
quen rồi, cho nên thiết tưởng không
nên thay đổi nữa. Tuy nhiên dùng nó
không phải là không có cái bất tiện,
bất cập. Thực thế, hiểu theo đúng
nghĩa chữ, thì tông giáo có nghĩa là
lời dạy (giáo) của ông tổ (tông). Dĩ
nhiên là tôn giáo cũng là một di sản
văn hoá được truyền lại. Nhưng
nghĩa của nó quá rộng, vì bất cứ cái
gì được truyền từ đời này sang đời
khác đều có thể gọi là tông giáo cả.
Cho nên có thể dùng nó để chỉ những
cái mà người Châu Âu không gọi là
religion. Chẳng lẽ chúng ta coi Phật
giáo, Thiên Chúa giáo cũng là một
loại như Bạch Liên giáo? Nói cho
cùng, chính cái ý niệm tôn giáo đối
với người Âu -Mỹ ngày nay cũng rất
khó định nghĩa, vì trong định chế tự
do tôn giáo, có nhiều người đem vào
Âu- Mỹ hay là chế biến ra tại Âu- Mỹ
những hệ thống tư tưởng và thực
hành, viện cớ là tôn giáo mới, để
được tự do truyền bá, tuy nhiều khi
người dân Âu – Mỹ cũng khám phá
ra trong đó có những điều nhảm nhí,
lừa bịp để làm tiền.
Nói tóm lại, dùng từ ngữ tôn giáo
chỉ nói lên được rằng đó là một
truyền thống được truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác, chứ không nói
rõ được cái nội dung của những
truyền thống ấy.
Trong tiếng Việt bây giờ người ta
cũng hay dùng chữ đạo. Tôi nghĩ dùng
như thế hay hơn, đúng hơn và giầu ý
nghĩa hơn. Chữ đạo mà ta lấy lại của
người Trung Hoa, vừa có nghĩa là
đường, đường phải đi, lối phải sống,
lại vừa có nghĩa là nguyên lí điều hoà
vũ trụ, thiên địa nhân. Nó có tính cách
thực hành, có liên quan đến hành vi,
hạnh kiểm, nếp sống, như người ta
nói: sống cho phải đạo.
Trong sách Phép giảng tám ngày,
sách trình bày giáo lí của đạo Thiên
Chúa, do giáo sĩ Alexandre de
Rhodes soạn bằng tiếng Việt viết
theo mẫu tự Latinh, có đối chiếu với
tiếng Latinh và cho in tại Rôma năm
1651, ta thấy dùng chữ đạo để phiên
dịch chữ Iex, nghĩa là lề luật (tiếng
Pháp là: Ioi), chứ không phải để
phiên dịch chữ religio (tôn giáo).
Thực ra chữ Latinh Iex cũng như chữ
Hy Lạp nomos đã được dùng để
phiên dịch chữ torah trong Thánh
Kinh của đạo Do Thái. Torah là bộ
luật do giáo tổ Môsê (xưa ta phiên
âm là Maisen) ban hành cho dân, để
biết cách sống cho phải đạo. Vì
Torah là sách chỉ đạo, chỉ cho tín
hữu con đường phải theo, nếp sống
phải giữ. Chính vì thế mà tôi nghĩ
chữ đạo giầu ý nghĩa hơn chữ giáo.
Đạo Thiên Chúa, đạo Đức Chúa Trời
Trước khi đạo được truyền sang
Việt Nam thì ở bên Trung Hoa các
giáo sĩ Tây phương đã phải giải
thích đạo của mình thờ vị nào. Họ
làm việc một cách đường đường
chính chính, viết xong sách thì dâng
lên cho vua quan đọc. Khi vua Càn
Long nhà Thanh cho làm sổ thư tịch
bằng Hán văn ở Trung Quốc, có cho
vào sổ đó ba cuốn sách trình bày đạo
Thiên Chúa do ba vị giáo sĩ Tây
phương soạn thảo(2). Nhưng muốn
gọi cho đích xác vị nào đạo mình thờ
thì không dễ gì, vì trong các vị
Thần, Thánh, Tiên, Phật được thờ bên
Trung Quốc, không thấy có vị nào
như thế cả.
Khó gọi tên như thế là vì lấy gốc
tích từ đạo Do Thái. Thực thế, dân Do
Thái thờ phụng một vị không giống
một nhân vật hay sự vật nào trong
trời đất này cả. Vì thế không thể gọi
tên được, cũng như ta đọc trong Đạo
Đức kinh của Đạo gia: “danh khả
danh phi thường danh”. Vì gọi tên ra
được, tức là phân loại được, xếp được
vào một loại như các nhân vật hay
sự vật khác. Đàng khác, cũng như ở
Việt Nam có thói tránh tên huý, cho
nên tên viết phải đọc trại đi; cũng
thế, mà còn hơn nữa, người Do Thái
chỉ viết tên vị đó bằng bốn phụ âm
YHWH, mà không viết nguyên âm, vì
thế không thể đọc lên được, vì không
được phép gọi tên vị đó. Khi quan
niệm tôn giáo ấy được truyền vào
văn hoá Hy Lạp và Latinh, thì người
ta tạm dùng từ ngữ Theos và Deus,
có nghĩa là thần linh. Nhưng vì
trong hai nền văn hoá đó người ta
thờ bách thần, nghĩa là vô số thần
linh, cho nên phải nói thêm ra rằng
mình chỉ thờ có một thần linh mà
thôi còn các thần linh khác thì mình
coi là không có, và cũng vì thế người
ta viết chữ hoa Theos, Deus, như là
tên riêng vậy. Sau này người Châu
Âu cũng viết chữ hoa như thế: Deus,
Dieu, Dio, Dios, God, Gott, v.v…
Các giáo sĩ Tây phương đã bàn
luận rất nhiều để tìm ra tên gọi cho
chính danh. Họ đi tới quyết định là
không dùng chữ Thiên, không dùng
hai chữ Thượng Đế, để tránh hiểu
lầm, mà chỉ dùng hai chữ Thiên Chủ
(hay là Thiên địa chân chủ, Chúa
thật trời đất). Do đó gọi tên đạo là
Thiên chủ giáo. Và vì các giáo sĩ
truyền bá Thiên chủ giáo vào thế kỉ
XVI và XVII đều thuộc về tông phái
“Công giáo”, cho nên người ta cũng
dùng những chữ Thiên chủ giáo để
chỉ đạo “Công giáo”.
Khi đạo truyền vào Việt Nam, thì
tên gọi đã được ấn định, cho nên
người ta gọi theo chữ Hán – Việt là
Thiên Chủ giáo, Thiên Chủ là Chúa
Trời, nhưng người Việt ta đệm chữ
Đức để tỏ lòng cung kính, cũng như
ta nói: Đức Phật, Đức Khổng Tử, Đức
Thánh Trần, và sau này người Công
giáo Việt Nam cũng có cách gọi tên
như: Đức Chúa, Đức Chúa Bà, Đức Bà,
Đức Mẹ, Đức Cha, Đức Ông, v.v… Vì
thế cho nên tên gọi đạo là đạo Đức
Chúa Trời.
Có một điều làm cho tôi hơi thắc
mắc: vì sao người mình không đọc
theo lối Hán – Việt là Thiên Chủ, mà
lại đọc là Thiên Chúa? Tôi xin phép
đề nghị một giả thuyết: Đạo Thiên
Chúa được truyền sang đất Đại Việt
vào thời Nam Bắc phân tranh: Đàng
Trong thì có chúa Nguyễn, Đàng
Ngoài thì có vua Lê, chúa Trịnh. Vua
thì xưng hiệu là đế, là hoàng đế, còn
chúa Nguyễn và chúa Trịnh, thì tuy
chỉ có tước vương là vua, nhưng thực
có binh quyền trong tay và tự quyết
định lấy mọi việc. Vì thế khi nói về
chúa Trịnh, các giáo sĩ Tây phương
thời đó quen gọi là “le roi du
Tonkin”. Biết đâu vì vua là hư vị, còn
“Chúa” mới có thực quyền cho nên
người ta phiên dịch chữ Deus là
Thiên Chúa?
Nói cho đúng thì gọi là Thiên
Chúa vẫn chưa đủ ý nghĩa, vì sách vở
đời xưa cũng hay dùng kiểu nói
Thiên địa chân chủ, Chúa thật trời
đất. Nhiều khi lại gọi vắn tắt là
Chúa, và để phân biệt được với chúa
Trịnh, chúa Nguyễn, thì các giáo sĩ
thường đệm từ ngữ Deus, đáng lẽ
phải phiên âm là Đêu, nhưng lại viết
theo kiểu người Châu Âu là Dêu, cho
nên gọi là Chúa Dêu. Lối phiên âm
này có điều bất tiện là: người Hà Nội
đọc là Zêu, người miền khác lại đọc
là Rêu, Giêu hay là Jêu!
Đạo Hoa Lang, Đạo Gia Tô?
Hai tên gọi này đã có từ thế kỉ XVII.
Các sách Đại Việt sử kí toàn thư
(ĐVSKTT) và Khâm định Việt sử thông
giám cương mục đều có nhắc tới.
Về tên gọi Hoa Lang thì ĐVSKTT
viết: (1663) Mùa đông tháng 10, cấm
người trong nước học đạo Hoa Lang.
Trước đây có người nước Hoa Lang
vào nước ta, lập đạo lừa phỉnh dân
ngu, đàn ông đàn bà ngu dốt nhiều
người tin mộ, chỗ nhà giảng người ở
hỗn tạp, trai gái không phân biệt.
Trước đã đuổi người giảng đạo đi
rồi, mà sách vở và nơi giảng hãy còn
thói tệ chưa đổi. Đến nay lại nghiêm
cấm” (Q. XIX, Huyền tôn Mục hoàng
đế, Cảnh Trị, bản dịch Nxb. KHXH,
tập III, tr. 298).
Người Công giáo không chịu nhận
tên gọi như thế và đã tìm cách giải
thích từ lâu rồi. Tôi xin trưng dẫn ra
đây chứng lí được in ra bằng chữ
Quốc ngữ lần đầu tiên trong sách
Chân đạo yếu lí do giám mục Paul –
Francois Puginier (quen gọi là Đức
Cha Phước), coi sóc địa phận Tây
Đàng Ngoài cho in bằng chữ Quốc
ngữ năm 1882, trang 124-125: “Có kẻ
quen gọi đạo Thiên Chúa là Hoa
Lang đạo; nhưng mà tiếng Hoa Lang
có ít người hiểu. Vậy có sách rằng:
tên Hoa Lang là tên đặt cho lái buôn
kia chở những vóc có hoa như hoa
khoai lang, cho nên gọi lái buôn ấy là
Hoa Lang. Đến ngày sau những người
giữ đạo Thiên Chúa gọi là Hoa Lang
đạo, vì giữ một đạo như lái buôn ấy;
nhưng mà trong các sách đạo Thiên
Chúa chẳng có dùng tiếng Hoa Lang
bao giờ, một dạy kính chuộng một
Thiên địa chân chúa trên hết mọi sự
và yêu người ta bằng mình ta vậy”.
Đoạn văn đó căn cứ vào bản chữ Nôm
in năm 1829, và có sửa ít chút; rồi bản
chữ Nôm đó đã lấy lại trong cặp vở
ghi chú của giáo sĩ Langlois viết vào
cuối thế kỉ XVIIIP (3)
Trong thiên khảo luận viết bằng
tiếng Pháp, nhan đề Truyền thống
Việt Nam: Một quốc gia trong lòng
văn hoá Trung Hoa, học giả Philippe
Langlet viết: “Trong Minh sử, Ngoại
quốc truyện, có gọi họ là Hoà Lan; họ
là người phương Tây mà dân quê tôi
gọi trại đi là Hoa Lang”(4). Và ông
ghi chú rằng đó không thể là Hoà
Lan được, nhưng là người Bồ Đào
Nha, căn cứ theo lá thư của giáo sĩ
Le Royer viết năm 1714 về vụ cấm
đạo năm 1712, như sau: “Cũng như
trước đây, sắc lệnh cấm đạo không
bao giờ gọi tên là đạo Đức Chúa Trời,
nhưng đã cấm đạo dưới cái tên là
đạo Hoa Lang, tức là đạo của người
Bồ Đào Nha” (Lettres édifiantes et
curieuses, t. IV, tr. 538b).
Gần đây Alexander Barton
Woodside lại đưa ra một lối giải thích
khác trong cuốn sách Việt Nam và
khuôn mẫu Trung Hoa. Căn cứ vào lối
giải thích của một người Thái Lan, là
Chule Chakrabongse(5) , Woodside viết:
“(cũng trong những tài liệu đó), Châu
Âu, thường được gọi là Hoa Lang
quốc, Hoa Lang là cách người Việt
Nam phiên âm tiếng Xiêm farang, từ
ngữ dùng để chỉ người da trắng”(6)Tuy chưa có bằng chứng gì cả, nhưng
tôi cũng tự hỏi: biết đâu chữ farang đó
lại chẳng phải là từ chữ Franỗe (Pha Lang Sa) mà ra? Còn về tên gọi đạo Gia Tô (cũng
viết là Da Tô), thì dễ giải thích hơn.
Đây là lời giải thích trong sách Chân
đạo yếu lí đã dẫn trên đây: “Bằng
tiếng Da Tô kẻ ghét đạo quen dùng,
thật là tiếng vô nghĩa trong nước
Annam, vì kẻ đọc tiếng ấy cứ về chữ
nho, song người Đại Minh đọc tiếng
ấy là Jêsu, như bổn đạo Annam cũng
quen đọc, mà trong các sách đạo đã
cắt nghĩa rằng: tiếng Jêsu nghĩa là
đấng hay cứu” (tr. 137; bản Nôm năm
1828, tờ 126 a+b).
Như thế cũng đủ rõ là hai tên gọi
Hoa Lang và Gia Tô không chỉnh. Có
điều là các sắc lệnh cấm đạo thời xưa,
và cả bài hịch Bình Tây Sát Tả của
Văn thân, thì đều viết bằng Hán văn,
cho nên viết và đọc theo giọng Hán –
Việt là đạo Gia Tô, chứ có lẽ không
biết phải gọi là Giêsu. Về chữ Cơ Đốc
cũng thế, như đã nói trên đây. Ta
thấy, viết như người Trung Hoa thì
được, nhưng đọc lên theo giọng Hán –
Việt thì sai đi nhiều. Đó cũng là cái
tật của người mình khi phiên âm tên
ngoại quốc: thay vì phiên âm theo
cách đọc của người ta, thì lại bắt
chước cách viết của người Trung
Quốc, rồi đọc sang giọng Hán – Việt.
Ví dụ trước đây thay vì viết tên
Rousseau và chỉ cách đọc là Ruxô, thì
lại phiên âm là Lư Thoa; thay vì viết
Platon và chỉ cách đọc là Pờlatôn, thì
lại phiên âm là Bá Lạp Đồ, v.v...
Vậy nên làm thế nào?
1. ở Việt Nam người ta quen nói
đạo của người Công giáo là đạo Thiên
Chúa. Nói như thế đúng nhưng chưa
rõ lắm. Thực vậy, các tín đồ của đạo
Do Thái, của đạo Giêsu và của đạo
Hồi hồi (Islam) đều cùng thờ một
Thiên Chúa, một Thiên Địa Chân
Chúa như nhau, nhưng họ khác nhau
về quan niệm và về tương quan với
Thiên Chúa, lại khác nhau về lối
sống đạo và hành đạo.
Người Do Thái căn cứ vào lịch sử
của họ mà tin rằng Thiên Chúa đã
chọn riêng dân tộc của họ, chọn giáo
tổ của họ là Môsê, cho họ biết dự
định của Ngài về họ, và thành lập
giao ước với họ, lại dẫn dắt họ trên
đường đời. Đạo của họ, tuy là có nói
đến ý định của Thiên Chúa về vận
mệnh của các dân tộc khác, nhưng
không có tính cách phổ thông, vì
dành ưu tiên cho một dân tộc, ít là
trong một giai đoạn lịch sử. Cũng
như hai tôn giáo sau đây, họ tin
rằng Thiên Chúa là siêu việt, khác
hẳn mọi vật trong trời đất này.
Còn môn đồ của đức Giêsu, cũng từ
đạo Do Thái mà ra, thì tin rằng
chính Ngài là hiện thân của Thiên
Chúa, để dạy dỗ và để tỏ ra mối tình
thân ái đối với nhân loại. Đó là giao
ước mới của Thiên Chúa. Cũng như
trong đạo Do Thái, họ tin tưởng rằng
Thiên Chúa có tình riêng với nhân
loại, chứ không hờ hững bất xét đối
với người ta, như thần linh của các
tôn giáo khác. Đạo của Ngài có tính
cách phổ thông, vì là đường lối đề
nghị cho mọi người, chứ không dành
riêng cho một dân tộc nào cả.
Hồi giáo cũng tôn thờ một vị
Thiên Chúa như thế, nhưng họ đến
sau hai tôn giáo kia, cho nên không
cần kinh nghiệm nhiều thế kỉ trong
lịch sử, không cần mất nhiều thì giờ,
để nhận định là có một Thiên Chúa
mà thôi. Nhưng họ không cho rằng
Thiên Chúa nói với người ta một
cách từ từ, qua những biến cố lịch sử
của một dân tộc (Do Thái), hay là qua
nếp sống của một nhân vật đặc biệt
(Giêsu), nhưng là nói thẳng ra ngay
bằng tiếng Arập cho giáo tổ là
Mohammed nghe và cho chép lại
thành cuốn Thánh kinh Coran. Ai nấy
phải nghe và quy phục. Hồi giáo là
đạo phổ thông, nhưng nội dung thì ít
hơn đạo Do Thái và đạo Giêsu nhiều,
vì Mohammed cho rằng hai đạo ấy
quá rườm rà, và ông cho rằng làm
như ông là trở về nguồn trong sáng
và đơn sơ hơn. Đại khái là như thế.
Người Công giáo thì theo đạo do
Đức Giêsu lập, tức là theo một trong
ba tôn giáo thờ một Thiên Chúa. Cho
nên đúng là họ theo đạo Thiên Chúa.
2. Nếu nói thêm ra rằng người
Công giáo theo đạo do Đức Giêsu
Kitô (Jésus-Christ), thì cũng đúng
nữa, nhưng vẫn chưa rõ lắm, vì Công
giáo là một trong mấy tông phái của
đạo Giêsu, như tông phái Chính
Thống (Orthodoxe), và tông phái Tin
Lành (évangélique, protestant).
Riêng tông phái Tin Lành, cũng gọi
là Canh tân giáo (réformée), trước
đây đã chia ra làm nhiều chi nhánh,
và ngày nay, nhất là bên Hoa Kỳ lại
thêm ra vô số chi nhánh mới, nhiều
khi không biết đến nhau và không
lâu bền. Vì thế tông phái Tin Lành
thấy cần phải thống nhất, và họ đã
thiết lập ra Hội đồng Đại kết. Nhưng
thống nhất không phải là dễ, vì có
nhiều điểm khác nhau, và ai cũng cho
mình là đạo Giêsu chính hiệu.
Vậy phải gọi tên đạo của Đức
Giêsu Kitô thế nào cho đúng?
Theo như lịch sử thì cái tên
christianus (chrétiens) và
christianismus là tên người ngoại
cuộc đặt cho môn đồ của Đức Giêsu
và đạo Ngài dạy, nghĩa là không đặt
theo tên vị giáo chủ. Biệt hiệu tiếng
Hy Lạp của Ngài là Christos (Christ):
nghĩa là đạo do vị Christos (tiếng
gốc Hipri là Masia), tức là vị mà
Thiên Chúa sai xuống thế gian để
cứu độ cho người ta. Như đã nói trên
đây, người Trung Quốc phiên âm là
Jilisisu hay là Kilisitu, đọc theo
giọng Hán-Việt là Cơ lợi tư đốc, gọi
tắt là Cơ Đốc. Cho nên khi gọi đạo
Ngài là Cơ Đốc giáo tức là phiên âm
chữ Christianisme. Ngoài ra người
Trung Quốc cũng có danh từ Ye su
jiào, đạo của Giêsu, nhưng giọng
Hán – Việt lại đọc trệch đi là Gia Tô
giáo, hay là đạo Gia Tô.
Bên Việt Nam buổi đầu người ta
phiên âm chữ Christos là Khirixitô
hay là Kirixitô và gần đây là Kitô.
Xem chừng người đã bắt đầu quen
dùng tên gọi đạo Kitô thay vì đạo
Kirixitô. Cá nhân tôi thấy nó thế nào
ấy, vì đọc lên không thấy có âm
hưởng gì cả, lại không thấy giống
chữ Christos là bao nhiêu. Có lẽ dùng
mãi thì nó cũng quen đi. Nhưng tôi
đề nghị nên dùng thêm mấy kiểu nói
khác để dịch chữ Christianisme cho
rõ ý nghĩa hơn, như: đạo Giêsu, đạo
Chúa Giêsu, đạo Chúa Cứu Thế. Đề
nghị như thế là tôi căn cứ vào lời
giải thích trong sách giáo lí, sách
Bổn cũ, Phần I, đoạn 4: “Hỏi: Giêsu
nghĩa là làm sao? Thưa: Nghĩa là
đấng hay cứu….”. Như thế dĩ nhiên là
bỏ mất chữ Christos, nhưng không
thiệt gì cả vì chữ đó là tiếng Hy Lạp
dùng để phiên dịch chữ Hipri Masia,
có nghĩa là cứu tinh mà Thiên Chúa
sai xuống thế gian để cứu độ cho
người ta.
Phần Phụ lục: Về nguồn gốc hai
chữ “Công giáo”
Cho đến hết thế kỉ XIX, đạo Giêsu
Cứu Thế (Gia Tô, Cơ Đốc) thường bị
khó dễ, bắt bớ, cấm cách, vì nội dung
của nó không được vua quan cho là
hợp với đạo lí. Người theo đạo đã
phải ra công minh chứng rằng đạo
của mình không có gì là trái với tam
cương ngũ thường. Nhưng vào thế kỉ
XX, khi mà người theo đạo dùng hai
chữ “Công giáo” để chỉ cho đích xác
tông phái của mình, thì bị một số
người ngoại cuộc hiểu lầm hay là
hiểu sai đi, gây ra nhiều xích mích
tai hại cho hoà bình. Không biết như
thế là vô tình hay cố tình, nhưng
những người này cho rằng hai chữ
đó nói lên cái tham vọng của người
Công giáo muốn đặt tôn giáo của
mình lên làm tôn giáo của công
quyền, làm tôn giáo của nhà nước,
làm quốc giáo, nghĩa là nhà nước có
thể dùng công lực và công quyền để
bắt buộc mọi người phải theo, và dĩ
nhiên là đi tới kì thị tôn giáo. Cái
tham vọng đó, xưa nay nhiều tôn
giáo đã, đang và còn sẽ thực hiện,
nhất là khi người ta không phân biệt
tôn giáo với chính trị. Nhưng đó
không phải là lập trường của người
Công giáo, vì trên bình diện lí thuyết
họ đòi phải phân biệt tôn giáo với
chính trị.
Thực ra cách đây hơn 60 năm tôi
đã nghe một linh mục lão thành nói
rằng dùng chữ “Công giáo” thì
không chính danh, mà phải dùng hai
chữ khác, ví dụ như “Phổ giáo” để nói
lên rằng đó là đạo chung đón nhận
mọi người, chứ không riêng cho dân
tộc hay quốc gia nào.
Sau đây tôi xin nói lên cái nội
dung và nguồc gốc của hai chữ
“Công giáo”, để tránh những cái hiểu
lầm tai hại.
Theo như chỗ hiểu biết của tôi thì
trong sách vở của người theo đạo
Giêsu Cứu Thế, từ thế kỉ XVII cho
đến hết thế kỉ XIX, chưa bao giờ
dùng hai chữ “Công giáo”. Mãi đến
thế kỉ XX mới dùng, nhưng tôi chưa
biết đích xác ai đã bắt đầu dùng ở
Việt Nam, dùng từ bao giờ và trong
văn kiện nào. Xin để các nhà nghiên
cứu có phương tiện tìm giúp.
Như ai nấy đều biết, chữ “Công
giáo” bây giờ dùng để dịch chữ
“Catholica” (Catholique). Vốn chữ đó
là do gốc Hy Lạp: kata = (theo như),
holon (= cái toàn thể), dùng để chỉ
một trong ba đặc điểm của giáo hội,
nghĩa là của cộng đoàn những người
theo đạo Giêsu Cứu Thế. Những
người đó ý thức được và tuyên xưng
(trong kinh Credo, tức là kinh Tin
Kính) ra rằng cộng đoàn của họ là
cộng đoàn duy nhất (una), không
chia ra năm bè bảy phái, thánh thiện
(sancta), nghĩa là có mục đích và các
phương tiện giúp cho người ta thánh
thiện. Còn đặc điểm thứ ba là chữ
Catholica trong mấy thế kỉ đầu
không tìm ra từ ngữ nào để dịch cho
đúng, cho nên người ta chỉ biết lấy
lại chữ Catholica rồi giải thích ý
nghĩa của nó.
Muốn nói cho đầy đủ cũng cần
phải thêm rằng: ngày xưa người ta
chưa dùng chữ thánh thiện và chữ
giáo hội (hội thánh)(7) để dịch chữ sancta và chữ ecclesia (église, giáo
hội). Riêng chữ ecclesia, thì người ta
còn phiên âm chữ Igreja từ tiếng Bồ
Đào Nha, thành ra nhiều kiểu.
Xin đơn cử ra đây một vài ví dụ:
giáo sĩ Alexandre de Rhodes, trong
sách Phép giảng tám ngày (Roma,
1651) thì dùng kiểu nói: “thánh
ecclesia” (tr. 136). Trong Sách dạy
những phép giúp lễ misa, viết tay tại
Cửa Hát năm 1704 (Văn khố Hội thừa
sai nước ngoài tại Paris, AMEP, số V
– 1099) thì viết là Ighereja. Trong
Sách giảng đạo thật viết năm 1785,
(AMEP, số 1183) thì nói “thánh Igrêsa
catholica”. Còn trong sách Bổn (sách
giáo lí) tiếng Việt, có đề tên Latinh
là Catechismus annamiticus (AMEP,
số V-1092) – có lẽ đã soạn ra vào thế
kỉ XVIII – thì viết: “Tôi tin có sangta
Igheresa catholica” (tr. 117). Có lẽ
Giám mục Bá Đa Lộc (Pierre
Pigneaux Béhaine) là người đầu tiên
dùng chữ “Hội thánh” thay vì chữ
“ecclesia” trong sách Thánh giáo yếu
lí Quốc ngữ”(8) (in năm 1774 tại
Quảng Châu bằng chữ Nôm, có bản
viết tay bằng chữ Quốc ngữ mẫu tự
Latinh, AMEP số V-1095, tr. 42), nhưng
cũng trong sách đó, trang 64, trong
kinh “Tôi tin kính”, lại dùng kiểu nói
cũ “Tôi tin có Sancta Ighêleja
catholica”. Trong Sách sổ sang chép
các việc, viết xong tại Lisboa
(Lisbonne, Bồ Đào Nha) năm 1822 (do
Thanh Lãng giới thiệu và Viện đại
học Đà Lạt cho xuất bản năm 1968),
thì tác giả Philiphê Bỉnh vẫn còn
dùng kiểu nói “thánh Igreja” (tr. 262)
và “thánh Igreja catholica” (tr. 194).
Về ý nghĩa chữ “catholica”, thì sách
Thánh Đạo Đại Nguyên, in bằng chữ
Quốc ngữ tại Làng Sông, gần Quy
Nhơn, năm 1907 giải thích như sau:
“Chính mình Chúa xuống thế lập một
hội chung cho các nước cả và thiên hạ”
(tr. 199); Và ngày nay người Công giáo
Việt Nam vẫn đọc trong kinh Tin Kính:
“Tôi tin có hội thánh hằng có ở khắp
thế này”. Những câu mà tôi cho in
nghiêng đều chứng tỏ rằng những
người đọc kinh như thế không có ý
dùng công lực hay công quyền để bắt
ép người khác phải theo đạo mình.
Như tôi đã nói trên đây, hai chữ
“Công giáo” dùng để dịch chữ
“catholica” thực ra không hợp với ý
nghĩa của nó cho lắm, lại cũng có thể
gây ra hiểu lầm. Nhưng người ta dùng
cũng đã quen, cho nên vấn đề là phải
giải thích cho người ta hiểu đúng.
Nhưng hai chữ đó từ đâu mà ra?
Theo tôi hiểu thì có hai nguyên do
đưa tới kiểu nói “Công giáo”.
Thứ nhất là về chữ “giáo”: Theo đúng
nghĩa của nó thì tất cả những người
theo đạo Giêsu Cứu Thế đều là thành
phần của một cộng đoàn catholica,
chung cho cả thế giới, không phân biệt
quốc gia dân tộc, coi mọi người là anh
em, con một Cha chung; vì cộng đoàn
không có tính cách thế tục, hơn nữa lại
cũng không phân biệt tông phái. Vì thế
các tông phái, tuy nhiều khi không tự
xưng là catholica, nhưng cùng có niềm
tin một cộng đoàn catholica như nhau.
Vào thế kỉ XI vì một vài lí do có
tính cách văn hoá và cách thức tổ
chức, lại đôi khi có thêm lí do chính
trị và kinh tế, hơn là vì lí do đức tin,
nên có li khai thành hai tông phái,
hai cộng đoàn: người miền Đông Âu,
nói tiếng Hy Lạp, thì tự xưng là
“oxthodoxes”, có nghĩa là “chính
kiến”, nhưng ta quen gọi là giáo hội
“Chính Thống”; còn người miền Tây
Âu, nói tiếng Latinh, thì không lấy
tên gì khác, cho nên vẫn gọi là giáo
hội catholica. Đến thế kỉ XVI, lại có
li khai nữa ở giáo hội Tây Âu: những
người ở Bắc Âu đi theo phong trào
cải cách của Martin Luther (1483-
1546) và của Jean Calvin (1509-1564) thì tự
xưng là “Tin Lành” (évangélique), “Cải
giáo (réforme) hay là “Chống đối”
(protestant, không nên dịch là “thệ
phản”). Còn những người miền nam Châu
Âu, không chống đối, không li khai với
giáo tông, thì không có tên gì khác,
cho nên vẫn gọi là giáo hội catholica.
Từ đó, giáo hội gọi là catholica, chỉ
còn là một tông phái, tuy là cộng
đoàn đông người nhất, nhưng không
thu họp được tất cả các môn đồ của
giáo tổ Giêsu nữa. Những giáo sĩ đầu
tiên sang truyền giáo ở Việt Nam
đều thuộc về giáo hội catholica cả.
Thêm vào đó chữ catholica, theo lí
thuyết phải dùng để chỉ một đặc tính
của giáo hội, thì dần dần ở Châu Âu
người ta dùng để chỉ tôn giáo. Vì lí
do rằng mỗi tông phái trên đây đều
cho rằng đường lối của mình là
chính đạo. Từ đó, ngay từ bên Châu
Âu người ta đã nói đến đạo Chính
Thống (religion orthodoxe), đạo Tin
Lành (religion protestante) và đạo
catholica. Theo như tôi biết thì trong
sách vở bằng tiếng Việt có lẽ
Philiphê Bỉnh là người đầu tiên
dùng kiểu nói “đạo catholica
Romana”, “đạo catholica” (Xem Sách
sổ sang chép các việc, đã dẫn trên
đây, trang 177 và 191). Như thế là ta
giải thích được chữ “giáo” trong kiểu
nói “Công giáo”.
Thứ hai là về chữ “công”: Chữ
catholica trước đây không được phiên
dịch ra tiếng Việt, mà chỉ được giải
thích là: “hội thánh hằng có ở khắp thế
này”. Vì thế tôi nghĩ phải tìm trong sách
đạo viết bằng chữ Hán dùng ở Việt Nam.
Thực ra các giáo sĩ người Âu, trước khi
họ sang Việt Nam, thì thường đã sang
Trung Hoa trước, và đem sang bên ta
một ít sách chữ Hán cho mình dùng,
không những là sách giáo lí mà cả sách
chép các kinh nhật tụng nữa. Đặc biệt
nhất là Kinh cầu Đức Bà bằng chữ Hán,
gọi là Kinh cầu chữ, mà trước đây
thường đọc trong những ngày giỗ.
Tôi đã may mắn tìm được trong cuốn
sách viết tay Bổn Ba Ngôi (AMEP, số V-
1100) trang 115, có Kinh Tin Kính phiên
âm Hán –Việt. Kinh bắt đầu thế này: “Thần
tín tuyền năng giả Thiên Chúa Phatêrê
tạo thành thiên địa, v.v…: (= Tôi tin kính
Đức Chúa Trời là Cha phép tắc vô cùng
dựng nên trời đất, v.v…). Đến chỗ nói về
giáo hội thì phiên âm Hán-Việt là như
sau: “Thần tín hữu thánh nhi công
Ighêregia”. “Thần tín hữu” là “Tôi tin có”;
“thánh” là dịch chữ “sancta” là “thánh
thiện”; “nhi” là “mà, mà lại”; còn “Ighêrêgia”
là phiên âm chữ “Igreja”, “ecclesia” (église),
tức là giáo hội, hội thánh. Riêng chữ
“công” ở đây là dịch chữ “catholica”, có
nghĩa là (hội thánh) hằng có ở khắp thế
này”, như đã giải thích trên đây.
Như thế đã rõ: tông phái catholica theo
đường lối nào, theo đạo nào, thì đạo ấy
gọi là đạo catholica, tức là đạo chung cho
mọi người. Lại vì chữ “công” có nghĩa là
“chung”, cho nên người Trung Hoa dịch
“catholica” là “công”. Thành ra khi chuyển
đặc tính catholica làm đặc tính của đạo,
thì dĩ nhiên là người ta dùng hai chữ
“Công giáo”. Tôi không biết người đầu
tiên dùng hai chữ “Công giáo” có cân nhắc
như thế không, nhưng tôi trộm nghĩ đó là
cái lí sự làm nền tảng cho cách phiên dịch
chữ “religio catholica”.
Vẫn biết là cần phải nói cho chính
danh, mới tránh được hành động sai
lầm, nhưng tôi nghĩ không nên câu nệ
về từ nguyên (9) . Những kiểu nói tuy
không hoàn toàn đúng, nhưng dùng đã
quá quen, như hai chữ “Công giáo”, thì
có lẽ không nên sửa lại nữa, nhưng cần
phải giải thích để hiểu cho đúng./.
Chú thích:
1. “Tradition chinoise et religion”, trong cuốn sách
tập thể Catholicisme et sociétés asiatiques, do Alain
Forest và Yoschibaru Tsuboi thu thập, Nxb.
L’Harmattan, Paris, 1988, tr. 21.
Trần Văn Toàn. Đạo Thiên Chúa…
2. Ba vị đó là Matteo đã viết cuốn Thiên Chủ Thực
Nghĩa, Diego de Pantoja đã viết cuốn Thất Khắc (là
bảy điều khắc kỉ, lấy bảy nhân đức để khắc phục bảy
thói xấu. Sách chữ Hán này đã có dùng tại Việt
Nam) và Ferdinand Verbiest đã viết sách trình bày
đại cương các tín lí cơ bản của đạo Thiên Chúa.
Trong bức thư viết tại Bắc Kinh, ngày 31-7-1778,
một giáo sĩ có kể như sau: “Điều làm cho chúng tôi
thích thú, là trong tủ sách có giá trị đó thì hòang đế
đã cho xếp vào đó ba cuốn sách do các giáo sĩ dòng
Tên (tu hội lấy tên đức Giêsu mà gọi) biên soạn”, và
ông kết luận: “Đây là điều tiền hậu bất nhất của con
người ta. Người Trung Quốc đem sách của đạo ta
vào sổ các sách tốt nhất viết bằng Hán văn, nhưng họ
lại bắt bớ cấm cách người theo đạo ta” (trong
Nouvelles lettres édifiantes et curieuses, Lyon, 1819,
tập XIII, tr. 519-520).
3. Xem: Archives des Missions étrangéres de Paris (Văn
khố Hội Thừa sai nước ngoài tại Paris), tập V-1102.
4. “La tradition Vietnamienne: un Etat national au
sein de la civilisation chinoise”, in trong Bulletin de
la Société des Etudes Indochinoises (Saigon), bộ
mới, tập XLV, số 2+3, 1970, tr. 101.
5. Xem sách Lords of life: The paternal Monarchy of
Bankok, London, 1960, tr. 36.
6. Vietnam and the Chinese Model, Cambridge (Ma)
and London, 1988, tr. 246.
7. Cũng như bên nhà Phật, cộng đoàn những người đi
tu theo Phật pháp gọi là Sâng, người Trung Hoa
không dịch, nhưng phiên âm là seng (seng-jia), đọc
theo giọng Hán –Việt là tăng (tăng già), nhưng hình
như không còn hiểu là cộng đoàn, mà hiểu là cá
nhân người đi tu, nghĩa là ông sư (người đi tu ngày
xưa tự xưng là bần tăng). Thiết tưởng có lẽ vì thế mà
ngày nay khi muốn nói đến cộng đoàn thì bên nhà
Phật cũng dùng chữ giáo hội (église) như bên Công
giáo.
8. “Quốc ngữ” ở đây có nghĩa là tiếng nước ta, tiếng
Việt, chứ không phải chữ Hán. Vì thế chữ Nôm cũng
gọi là chữ Quốc ngữ.
9. Ví dụ ở Châu Âu ngày nay ai nấy đều dùng
Physiologie theo nghĩa là Sinh lí học, mà không xét
rằng theo từ nguyên thì nó có nghĩa là Thiên nhiên
luận, như triết gia Feuerbach đã dùng. Cũng như hai
chữ Hán-Việt phương tiện thì Từ điển tiếng Việt, Hà
Nội, 1967, định nghĩa là Vật sử dụng để làm một việc
gì, để đạt một mục đích; nhưng trong Dictionnaire
Chinois-Francais, Bắc Kinh, 1964, lại dịch hai chữ
fang biàn (phương tiện) là Commode, Favorable,
Commodité, Favoriser; và kiểu nói qù fang biàn (khứ
phương tiện) phải hiểu là… đi nhà vệ sinh.
Kính lạy Đức Chúa Trời! Con nhận biết con là người có tội cần được sự tha thứ. Con tin chắc rằng Đức Chúa Giê-su đã giáng thế, sống một cuộc đời hoàn hảo, và chịu chết đền tội cho con trên thập tự giá, Ngài cũng đã sống lại để con được sự sống vĩnh cửu. Con xin ăn năn mọi tội lỗi và đặt lòng tin nơi Chúa ngay giờ này. Con xin Chúa ngự vào lòng con để hướng dẫn con trên bước đường theo Chúa. Con tạ ơn Chúa và cầu nguyện nhân danh Đức Chúa Cứu Thế Giê-su. Amen.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Cám ơn bạn đã đọc bài viết. bạn có nhận xét gì về bài viết và quan điểm của bạn hãy để lại vài lời chia sẻ cùng mọi người. Xin lưu ý bạn, các nhận xét không có tính góp ý xây dựng sẽ bị xoá ngay. Các nội dung gõ bằng tiếng Việt, có dấu rõ ràng sẽ không làm người khác hiểu lầm. Xin trân trọng cảm ơn bạn đã ghé thăm blog.Chúa ban phước cho bạn!