Hiển thị các bài đăng có nhãn Tản mạn. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tản mạn. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 11 tháng 1, 2010

Giáng sinh ấm áp

Andy ngồi trên tuyết, cậu bé thấy lạnh hơn từng giây một. Andy không đi ủng - thứ mà người ta vẫn thường đi trên tuyết vào mùa đông. Cậu bé không thích ủng và dù sao cậu bé vẫn không có ủng cơ mà. Đôi giày vải, mỏng dính, mòn vẹt mà Andy đang mang đã có vài lỗ thủng và chúng không thể làm được việc là giữ ấm cho đôi chân cậu bé.

Andy đã ngồi trên tuyết thật là lâu rồi. Và dù cố đến mấy, cậu bé vẫn không thể nghĩ ra được món quà Giáng sinh cho Mẹ. Cậu bé buồn bã lắc đầu "Vô ích thôi, dù rằng mình có nghĩ ra món quà gì, mình cũng không có tiền mà ."

Từ khi bố Andy mất 3 năm về trước, gia đình cậu bé suy sụp nặng nề. Ban đêm Mẹ cậu làm việc ở bệnh viện, nhưng với đồng lương ít ỏi chỉ đủ mấy mẹ con sống tạm qua ngày. Chúng còn nhỏ lắm, chẳng biết có nghĩ ra món quà gì để tặng Mẹ hay không. Thật không công bằng, bây giờ đã là chiều tối đêm Giáng sinh mà cậu bé vẫn ngồi đây, chẳng thể nghĩ được điều gì cả.

Chùi những giọt nước mắt, Andy đứng dậy đi xuống phố - nơi có rất nhiều cửa hàng. Cuộc sống thật khó khăn khi mà cậu bé mới 6 tuổi và không có bố, đặc biệt là khi mà người ta cần một người đàn ông để tâm sự. Andy đi từng cửa hàng này sang cửa hàng khác, nhìn vào từng cửa sổ rực rỡ một. Mọi thứ đều đẹp và ngoài khả năng của cậu. Trời đã bắt đầu tối, Andy buồn bã định quay về nhà thì bỗng nhiên cậu bé nhìn thấy một vật gì đó ánh lên trong tuyết. Andy cúi xuống: 1 đồng xu nhỏ bóng loáng dưới đất. Hẳn chưa ai có cảm giác được giàu có như là Andy cảm thấy vào lúc ấy.

Khi Andy nắm chặt "kho tàng mới nhặt được" của mình, cậu bé cảm thấy như có hơi ấm chạy qua cơ thể,và cậu mạnh dạn bước vào cửa hàng đầu tiên, niềm hân hoan của Andy ngay lập tức bị đóng băng lại khi từng nhân viên bán hàng bảo với cậu rằng chẳng thể làm gì với đồng xu nhỏ xíu đó. Cậu bé đi ra, nhìn thấy một cửa hàng hoa, Andy liều đứng lại xếp hàng.

Khi người chủ cửa hàng hỏi Andy cần gì, cậu bé đưa một đồng xu và e dè hỏi liệu mình có thể mua được 1 bông hoa tặng Mẹ trong đêm Giáng sinh với đồng xu nhỏ xíu này không, người chủ cửa hàng nhìn Andy, đặt tay lên vai cậu bé và nói: "Đợi một chút, con trai, để ta xem có thể làm gì cho con."

Khi đứng chờ, Andy ngắm những bông hoa tuyệt đẹp và cậu đã hiểu vì sao Mẹ cậu cũng như bao người phụ nữ khác lại thích hoa đến thế.

Tiếng đóng cửa sớm khi người khách cuối cùng rời khỏi cửa hàng đã đưa cậu quay về với hiện thực. Còn lại một mình trong cửa hàng, Andy bắt đầu cảm thấy cô đơn và hoảng sợ. Bỗng người chủ cửa hàng lại đi ra.

Trước mắt cậu bé là 12 bông hồng đỏ thắm, cuống dài, lá xanh cùng với những bông hoa gì đó trắng, nhỏ li ti, được bọc thành một bó có dây nơ màu bạc. Tim Andy ngừng một nhịp khi ông chủ cửa hàng đặt bó hoa vào một chiếc hộp trắng và bảo: "Tất cả là một đồng xu, con trai."

Andy chậm chạp đặt đồng xu vào tay ông chủ cửa hàng. Không thể là thật được! Không ai bán cho cậu cái gì với một đồng xu đâu! Nhận thấy sự băn khoăn trên mặt cậu bé, ông chủ cửa hàng giải thích: "May mắn là ta có mấy bông hoa bán với giá một đồng xu một bó. Con trai có thích không?"

Lần này thì Andy không ngần ngại nữa. Ra khỏi cửa hàng, Andy nghe thấy tiếng ông chủ nói với theo: "Giáng sinh vui vẻ, con trai."

Khi ông chủ cửa hàng quay về trong nhà, vợ ông hỏi: "Ông vừa nói chuyện và đem hoa cho ai thế?" Nhìn qua cửa sổ và chớp chớp mắt để ngăn không cho nước mắt trào ra, ông chủ cửa hàng khẽ nói: "Một điều thật lạ lùng đã xảy ra. Sáng nay, khi tôi chuẩn bị mở cửa hàng, tôi có cảm giác như ai đang mách bảo mình để sang bên cạnh 12 bông hoa hồng thật đẹp vì đó sẽ là món quà đặc biệt. Tôi đã nghĩ là mình đã tưởng tượng ra, thế nhưng tôi vẫn cứ để 12 bông hồng ra một chỗ. Và ngay lúc nãy, một cậu bé vào cửa hàng và muốn mua hoa để chúc Giáng sinh cho Mẹ chỉ với 1 đồng xu. Nhìn vào cậu bé, tôi thấy tôi của nhiều năm về trước. Tôi đã là một đứa trẻ nghèo khổ không biết mua gì cho Mẹ vào đêm Giáng sinh. Một người qua đường đã cho tôi 10 dolla không vì lý do gì. Khi tôi nhìn thấy cậu bé tối hôm nay, tôi biết người đã mách bảo tôi là ai...."

Tối Giáng sinh ấy, cả gia đình người chủ cửa hàng hoa và cả gia đình Andy nữa, không ai cảm thấy lạnh chút nào....
(St)
Đọc thêm!

Thứ Ba, 15 tháng 12, 2009

Món quà Giáng sinh của tôi!

Tôi luôn có cảm xúc đặc biệt mỗi khi mùa Giáng sinh về. Là một người yêu Chúa, tâm hồn tôi gắn chặt với nhiều lời dạy của Ngài.

Nguyễn Đoan Trang
(Bài dự thi "Entry về Giáng sinh yêu thương")

Mùa Noel lại đến, với cuộc đời tha hương như tôi, sẽ mang nhiều nỗi nhớ thương về quá khứ. Và vì cuộc sống của tôi có quá nhiều thay đổi, nên đôi khi cũng mang đậm vẻ buồn và luyến tiếc. Tiếc một khoảng thời tuổi trẻ đi hoang, tiếc những cơ hội làm đẹp thêm cho cuộc đời đã đánh mất... Và Giáng sinh năm nay, trong tôi gợi lại một nỗi xót xa muộn màng đã mười năm trôi qua.

Phải, đã đúng mười năm rồi, bằng chứng là con gái đầu lòng của tôi, nay đã được mười tuổi.

Món quà Giáng sinh của tôi!

Ngày ấy tôi ở Phnom Penh, thủ đô của đất nước chùa tháp. Những ngày đầu khó khăn tìm kiếm việc làm, chúng tôi được mọi người chỉ bảo nên mở một lớp dạy trẻ em tiếng Việt ở khu xóm người Việt Nam nghèo tại Phnom Penh. Và chúng tôi đã làm. Tiền thu học phí không đáng kể, chỉ đủ chợ búa đạm bạc thời ấy. Nhưng các em nhỏ thì rất phấn khởi vì được chúng tôi dạy biết chữ.

Các em thật hồn nhiên vô tư, không mơ ước cao xa nhiều, chỉ muốn biết chữ, biết làm toán để ''mai mốt buôn bán tính tiền phụ cha mẹ'', một ước muốn thật nhỏ nhoi. Cũng có vài em thật sự hiếu học mà không có tiền, chúng tôi cũng không thu học phí. Thương các em hầu hết là nghèo khổ, bữa cháo bữa rau, tập vở quần áo cũng chẳng mấy được lành lặn, mà thèm được đi học. Chúng xem thầy cô (chúng tôi) như ân nhân, bấu víu để kiếm chút chữ làm hành trang cho tương lai không mấy gì sáng sủa.

Nhưng chỉ sau vài tháng, chúng tôi đóng cửa lớp học vì kiếm được việc làm tốt ở một công ty nước ngoài. Bao nhiêu quyến luyến của học trò với các bậc phụ huynh ở cái xóm nghèo khổ tha hương ấy không thể giữ chân chúng tôi lại được. Cơm, áo, gạo tiền đã kéo chúng tôi ra đi. Đồng lương chúng tôi kiếm được gấp hàng trăm lần nếu chúng tôi dạy cho những đứa trẻ ấy.

Dòng đời trôi thấm thoát biết bao thay đổi. Chúng tôi ngụp lặn trong những toan tính của đua tranh, làm giàu, địa vị... để cuối cùng chia tay nhau mỗi người một ngả. Với những bàn tay trắng và còn thêm một đống những khoản nợ nần đáng sợ, mối quan tâm đến những gì xung quanh dường như đã ngủ trong tôi từ lúc nào, mà bản thân thì nào cũng có thành công?

Tôi cám ơn Thượng Đế, Ngài đã tha thứ cho tôi những sai lầm trong quá khứ, ban lại cho tôi một tình yêu, một gia đình mới tràn đầy hạnh phúc mà tôi đang có bây giờ. Nhưng từ sâu thẳm tâm hồn, sự hối hận luôn hiện về. Mười năm rồi đã trôi qua, các em nhỏ của tôi ngày ấy bây giờ đã mười tám, đôi mươi. Tôi không dám muốn biết bây giờ các em đang làm gì, sống ra sao? Có đứa đang chật vật với mưu sinh, chồng con, tay xách tay bồng buôn gánh bán bưng nơi đầu chợ cuối xóm không chừng. Cũng có đứa sẽ vào tù ra khám vì thiếu hiểu biết, không nghề ngỗng, chữ nghĩa... Có phải chính tôi cũng có một phần trách nhiệm hay không, nếu ngày ấy tôi không màn công danh mà ở lại đam bạc để dìu dắt các em?

Giáng sinh về, thiên chúa là tình yêu thương, và Ngài cũng nhắc nhở lại những thiếu sót trong cuộc đời tôi. Đã bốn năm, tôi sống tại nơi đầy đủ này, mỗi lễ Noel, chồng tôi chuẩn bị cho các con bao nhiêu món quà đắt tiền mà chúng ước, chẳng ngần ngại. Tôi bùi ngùi lắm mỗi khi nghĩ lại các em nhỏ nơi quê hương tôi một thời sinh sống. Các em rách rứa chẳng có thứ gì. Giáng sinh, quà và ông già Noel là những gì đó thật xa xôi. Tình cảm trong tôi thật lẫn lộn, có những lúc tôi tưởng mình như là Mẹ của chính các em ấy, chứ chẳng riêng gì hai đứa con bé bỏng của tôi. Và Chúa, Ngài thật nhiệm màu, Ngài biết rõ nỗi lòng của tôi, nên vào năm nay, tôi biết có một người, một người có trái tim thật nhiệt nồng, ít ra là hơn tôi. Đó là chị Phượng, một người hiện ở cái xóm nghèo của tôi năm xưa ấy. Chị đã vượt trên tất cả những khó khăn rẫy đầy của cuộc sống tha hương, nâng đỡ và dẫn dắt các em nhỏ mồ côi, nghèo khổ.

Chị dạy chúng không những chữ nghĩa, kiến thức mà còn cho chúng cả tình yêu của thiên Chúa, cách sống làm người tốt và nâng niu chúng như chính những đứa con ruột mình. Tôi cảm kích tấm lòng của chị vô cùng, chị làm được những gì mà tôi đã không làm trong quá khứ. Và Giáng sinh năm nay, món quà tôi nhận được thật to lớn. Tôi được đóng góp các phần quà cho các em, để các em được chính mắt thấy ông già Noel mang quà đến tặng, để những ca khúc đêm Noel vang lên trong căn nhà nhỏ bé, nơi chị Phượng sống và dạy dỗ các em.

Tôi đã viết biết bao dòng chữ ngọt ngào của tận đáy lòng để khích lệ chị Phượng, và xin cho tôi được đóng góp một phần nhỏ nhoi trong công việc hằng ngày của chị với lũ trẻ. Như thế, tôi được có cảm giác bù đắp quãng thời gian Chúa cho tôi trong quá khứ để làm một việc nghĩa, mà tôi không thể làm được. Hoặc tôi đánh đổi nó bằng những thứ hư không vô nghĩa, để rồi mười năm trôi qua, các em nhỏ của tôi ngày ấy bây giờ đã thành những ai?

Cuộc sống của chúng ta cứ trôi theo thời gian bất tận, và có khi là vui ít buồn nhiều, tình yêu và niềm tin trong cuộc sống cũng theo tháng năm hao mòn dần. Nhưng cảm tạ Thượng đế, vì Ngài là cội rễ của tình yêu. Ngài luôn đổ đầy và nhắc nhở chúng ta cần quan tâm những người xung quanh, dù muộn nhưng vẫn không phải là vô ích.

Tôi học được nhiều điều từ Ngài nhưng có những điều tôi tâm đắc, coi là phương châm sống, đó là: trên thế gian, những điều xấu luôn gia tăng, vì thế, chúng ta phải có trách nhiệm làm cho điều tốt nhiều lên. Vì những điều tốt không dễ tự nhiên mà có được. Còn điều này nữa, nó cũng mang nhiều ý nghĩa cho ngày Giáng sinh, đó là câu Ngài đã dạy tôi: Tình yêu thương không bao giờ bị hư mất!

Hãy cố gắng làm một điều gì có ý nghĩa cho mỗi mùa Giáng sinh của chính mình, bạn nhé!

Luebeck ngày 22/12/08
Trang
http://www.tin247.com/mon_qua_giang_sinh_cua_toi!-9-21361149.html
Đọc thêm!

Thứ Tư, 2 tháng 12, 2009

"Mật mã Da Vinci": Một cú sốc tôn giáo

Đức Hồng y Tarcisio Bertone nói: “Cuốn "Mật mã Da Vinci" là một loại thức ăn hôi thối và bệnh hoạn. Nó chứa đầy rẫy những lời nói dối và xuyên tạc chống lại Giáo hội, chống lại lịch sử đích thực và chân chính của đạo Thiên Chúa”.


“Mật mã Da Vinci" thành công trước tiên bởi nó được viết với một bút pháp tài tình dựa trên những tình tiết nghẹt thở. Với cốt truyện vô cùng ly kỳ hấp dẫn, người đọc lập tức bị lôi cuốn bởi những con chữ biến ảo trên từng trang sách. "Mật mã Da Vinci" được mở đầu bằng vụ ám sát linh mục Jacques Saunière tại Bảo tàng Louvre ở Paris . Bên cạnh dáng nằm kỳ lạ của nạn nhân là dòng chữ “Tìm Robert Langdon”. Và thế là Robert Langdon, vốn là một chuyên gia hàng đầu về biểu tượng tôn giáo thuộc Đại học Harvard đã bị cuốn vào rắc rối. Sophie Neveu, cháu của nạn nhân vốn là một chuyên gia giải mật mã đã cho Langdon biết ông đã trở thành nghi can số một của vụ án.

Langdon đã quyết định cùng Neveu chạy trốn. Cùng lúc đó, họ phát hiện ra rằng Jacques Saunière vốn là lãnh đạo của Hội Priory of Sion (vốn là một hội kín tôn giáo có thật). Vì muốn công bố những tài liệu mật liên quan đến Thiên Chúa giáo nên ông đã bị sát thủ Silas của Hội Opus Dei (cũng là một hội kín có thật khác) giết chết để bịt đầu mối. Bí mật đó liên quan đến Leonardo da Vinci, một thành viên của Hội Priory of Sion, người đã lồng vào những tác phẩm của mình những bức mật mã dẫn đường đến tung tích của chiếc Ly Thánh mà Chúa Jesus đã dùng trong Bữa tiệc cuối cùng.

Với trí thông minh của mình, bộ đôi Langdon và Neveu dần giải mã những bức mật mã của Da Vinci và hành trình đi tìm sự thật bắt đầu. Nắm được bí mật trong tay cũng là khi hai người rơi vào tình trạng nguy hiểm, bị Hội kín Opus Dei truy lùng ráo riết nhằm tiêu diệt để bịt đầu mối.Hành trình kiếm tìm chiếc ly Thánh đưa họ đến với những phát hiện chấn động làm đảo lộn nền tảng của Thiên Chúa giáo.

Đó là nữ Thánh Mary Magdalene và Chúa Jesus là hai vợ chồng (?!) và những hậu duệ của hai người (chính là Sophie Neveu) hiện vẫn tồn tại. Bí mật đó được Hội kín Priory of Sion cố gắng gìn giữ trong khi Hội kín Opus Dei cố tìm cách phá hủy để sự thật sẽ mãi chìm vào bóng đêm của sự bí ẩn.

Cuốn sách "Mật mã Da Vinci" dựa trên khá nhiều tài liệu lịch sử và giả thiết của giới nghiên cứu về tôn giáo như cuốn "Máu Thánh", "Ly Thánh Lễ Vượt Qua", "Huyết thống của Ly Thánh"... Những giả thiết về việc Chúa Jesus không chết trên cây thập giá, Chúa Jesus là người bình thường cũng không phải là điều mới mẻ. Tuy nhiên, tính hấp dẫn của "Mật mã Da Vinci" nằm ở chỗ tác giả Dan Brown đã khéo léo lồng ghép những sự kiện có thật cùng những sự kiện tưởng tượng, để cho chúng xảy ra ở những địa điểm có thật, tạo thành những giả thiết gây sốc nhất.

Độc giả dần bị dẫn dắt vào một lớp sương mù dày đặc trộn lẫn giữa những sự thật và tiểu thuyết khiến đôi khi người ta không khỏi phân vân tự vấn rằng liệu những định đề trong cuốn tiểu thuyết này có phải là sự thật hay không? Chính điều đó đã khiến nhiều cuộc tranh cãi nổ ra ngay sau khi "Mật mã Da Vinci" được phát hành.

"Mật mã Da Vinci" là gì? Nếu nhìn vào bức tranh Bữa tiệc cuối cùng của danh họa Leonardo da Vinci ta sẽ thấy hình ảnh Thánh John ngồi bên phải Jesus. Tuy nhiên, “mật mã” ở đây giải thích Thánh John thực ra chính là bà Mary Magdalene vì tư thế ngồi của Mary và Chúa Jesus tạo thành chữ M (Mary Magdalene) và trên thực tế, hình ảnh của Thánh John trông rất giống phụ nữ!

Về giả thiết Chúa Jesus và bà Mary Magdalene là hai vợ chồng như trong tiểu thuyết, Giáo sư Karen King, Đại học Harvard, nhận định rằng: “Không có bằng chứng gì về việc này. Tuy nhiên, phải nhìn nhận một thực tế rằng, Mary Magdalene là một người được Chúa Jesus truyền thụ nhiều tư tưởng của Thiên Chúa giáo. Bà là người có những đóng góp lớn lao trong lịch sử Thiên Chúa giáo buổi sơ khai”.

"Mật mã Da Vinci" cũng gây ra sự phản đối gay gắt từ phía Giáo hội Công giáo. Đức Hồng y Tarcisio Bertone nói: “Các nhà sách Công giáo nên loại bỏ ngay "Mật mã Da Vinci" giật gân này. Tác giả Dan Brown đáng bị lên án. Cuốn sách là một loại thức ăn hôi thối và bệnh hoạn. Nó chứa đầy rẫy những lời nói dối và xuyên tạc chống lại Giáo hội, chống lại lịch sử đích thực và chân chính của đạo Thiên Chúa”.

Còn tác giả của "Mật mã Da Vinci",thì phủ nhận việc chống đối lại những người Kitô giáo. Ông cho rằng "Mật mã Da Vinci" chỉ “đơn giản là một cuốn tiểu thuyết khai thác một số khía cạnh của lịch sử Thiên Chúa giáo mà tôi thích.

Theo Hoàng Tùng - (CAND)

Việt Báo (Theo_VnMedia)

Đọc thêm!

Lại nói chuyện những người con vua Thành Thái

Tiền phong tháng 2/2006 có bài về ông Nguyễn Phước Vĩnh Giu, Hoàng tử cuối cùng của vua Thành Thái, đang sống ở số 166, Phan Đình Phùng (Ninh Kiều, Cần Thơ) viết rằng một số anh em của ông theo đạo Thiên Chúa. Tại sao vua Thành Thái “ghét Tây” mà các hoàng tử lại theo đạo Thiên Chúa?

Vua Thành Thái “ghét Tây xâm lược” và thương dân mà bị truất ngôi, lưu đày đến đảo Rê-uy-ni-ông ở châu Phi. Ở chốn lưu đày ông vẫn can trường giữ gìn văn hóa dân tộc, giữ phong tục thờ cúng tổ tiên, giữ cả việc ăn trầu, 9 người con sinh ra trên đảo đều được dạy tiếng Việt và trong nhà chỉ nói tiếng Việt.

Vua Thành Thái giữ nề nếp gia phong đến mức nghiêm khắc. Con cái trên 20 tuổi mới được tự do đi ra ngoài và thư từ hẹn hò yêu đương. Con của vua Thành Thái là vua Duy Tân cùng bị lưu đày nhưng sau đó tham gia quân đội Pháp đã bị vua Thành Thái không nhìn mặt.

Theo hồi ký “Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc” của ông Phạm Khắc Hòe, ông được Mệ Cưởi, em ruột vua Duy Tân có mặt trong đoàn lưu đày đến đảo Rê-uy-ni-ông, kể rằng: “Cha tôi (vua Thành Thái) không thèm gặp mặt anh tôi (vua Duy Tân) nữa”.

Ông Nguyễn Phước Vĩnh Giu kể, vua Thành Thái ở biệt thự Pháp cấp được 2 năm, không chịu sự bó buộc đã mướn một trang trại có căn nhà gỗ rộng lớn, đưa gia đình ra ở.

Cuộc sống khá vất vả và gia đình nhà vua đã phải làm nhiều nghề để sinh sống: Mộc, nề, sơn, điện… Vua, hoàng hậu, các hoàng tử, công chúa đều làm việc. Công chúa Lương Mỹ trở thành một thợ điện gia dụng có tiếng trên đảo, rồi bà mở tiệm chụp hình “Sài Gòn Photo”, mở tiệm bán rượu và đồ hộp đều đắt khách.

Cũng nhờ thế, sau này ông Vĩnh Giu vượt qua được nhiều thời kỳ khó khăn, như hồi mới giải phóng ngồi vá xe đạp ở lề đường và hiện nay hầu hết tủ, giường, bàn, ghế trong nhà do ông tự đóng lấy.

Ở đảo lưu đày, anh em ông Vĩnh Giu từng mua một chiếc ô tô cũ, bỏ hết phần trên, giữ cái gầm xe chế ra một chiếc xe nhẹ, đẹp và chạy nhanh khiến dân trên đảo thán phục. Trong nhiều nghề sinh sống, gia đình vua Thành Thái nổi tiếng nhất với nghề làm yên ngựa và điều này đã được viết trong một số sử sách.

Tôi hỏi ông Vĩnh Giu, ông còn nhớ bí quyết làm yên ngựa không? Ông trả lời, làm yên ngựa phải tùy thuộc vào từng con ngựa, thợ Tây làm đồng loạt nên không vừa với một số con, ngựa bị cấn xương sống không thể chạy nhanh.



Gặp những con ngựa như thế thợ Tây chịu và phải cậy đến anh em cựu hoàng tử. Yên ngựa do anh em ông làm lắp vào con ngựa nào cũng thít chặt, êm, ngựa chạy trở nên hay. Anh em ông còn đóng móng ngựa, may hia cưỡi ngựa.
Từ làm yên ngựa đi tới mua những con ngựa khỏe nhưng bị Tây chê vì không biết đóng yên vừa với nó, những con ngựa đó bán rẻ về tay anh em ông Vĩnh Giu đã thành ngựa đắt tiền và gia đình vua Thành Thái có chuồng nuôi ngựa đua. Ông Vĩnh Giu kể, anh của ông là hoàng tử Vĩnh Chương đã sống bằng nghề đua ngựa.

“Trong một gia đình nghiêm khắc và tự chủ như vậy, nguyên nhân nào để anh em ông theo đạo Thiên Chúa?”- Tôi hỏi. Ông Vĩnh Giu trả lời, mười mấy anh chị em chỉ có ông Vĩnh Quỳnh và ông theo đạo Thiên Chúa mà thôi.

Ông Vĩnh Quỳnh làm linh mục và ông Vĩnh Giu theo anh trai học chữ ở trường dòng thuở nhỏ. Tuy nhiên, để ông Vĩnh Giu tin vào Chúa phải kể đến một tai nạn hút chết.

Lúc 15 tuổi, ông Vĩnh Giu theo bạn bè tập bơi ở một con sông nước chảy xiết, lòng sông có nhiều đá. Bơi ra giữa sông thì ông đuối sức, chìm dần, đám bạn thấy thế chạy đi gọi người lớn. Bất giác ông kêu “Chúa ơi” thì trước mặt xuất hiện một cái nón làm bằng bần, ông ôm lấy và nước đẩy đi.

Tỉnh dậy, ông thấy mình nằm bên bờ sông đang ôm một cục đá. Ông nghĩ Chúa đã nghe lời ông kêu mà cứu ông. Tôi chỉ hỏi, từ đó ông theo đạo Thiên Chúa? Chưa, ông trả lời, về nước năm 1947, năm 1954 vua cha Thành Thái mất thì năm 1955 ông mới làm lễ rửa tội.

Ông Vĩnh Giu lại nói, tôi theo mọi đạo răn dạy làm người, trong nhà cũng có thờ cúng tổ tiên lạy ông lạy bà chứ không cũ quá theo một tôn giáo. Rồi ông cười thật vui vẻ, thanh thản ở tuổi 84.

Tôi nhận ra một cách sống linh hoạt của người Việt Nam, gia đình nhà vua nhưng trong hoàn cảnh ngặt nghèo cũng tìm được cách thoát ra để tồn tại và phát triển.

Theo Vietbao.vn
Đọc thêm!

Bí mật cuộc đời Nam Phương Hoàng hậu

Cách mạng Tháng Tám thành công, vua Bảo Đại thoái vị, hoàng hậu Nam Phương sang Pháp sinh sống. Tuy giàu có, nhưng bà sống thiếu hạnh phúc và chết trong cô đơn nơi đất khách năm 1963, khi mới 49 tuổi.

Vĩnh Thụy (sinh năm 1913) khi mới 8 tuổi đã trở thành Đông cung Hoàng thái tử, được Pasquier (nhiều năm làm Khâm sứ Trung Kỳ và Toàn quyền Đông Dương) đưa về Paris , giao cho Charles nuôi dưỡng. Sau 11 năm du học bên Pháp, Vĩnh Thụy trở lại quê nhà (trên chuyến tàu thủy chở khách bình thường) lên ngôi Hoàng đế Bảo Đại, ở tuổi 19. Vợ chồng Charles cũng về theo.

Trên chuyến tàu này, có một nữ khách người Việt, cô Mariette Jeanne Nguyễn Hữu Thị Lan xinh đẹp, năm ấy vừa tròn 18 tuổi. Cô sinh năm 1914 tại Sài Gòn, con ông Nguyễn Hữu Hào và bà Lê Thị Bính, cháu ngoại ông huyện Sĩ ở Nam Kỳ, một trong bốn người giàu nhất nước Việt Nam những năm đầu của thế kỷ 20, một gia đình theo đạo Thiên Chúa, quốc tịch Pháp.

Năm 14 tuổi, cô được gia đình gửi sang Pháp, học trường dòng Couvent des Oiseaux ở Paris , cũng trở về nước chuyến này khi vừa học xong. Và lần đầu cô trông thấy Vĩnh Thụy ở phòng ăn trên tàu.

Năm sau, dưới sự đạo diễn của người Pháp, Vĩnh Thụy và cô Lan hội ngộ. Họ bố trí cho Vĩnh Thụy và Toàn quyền Pasquier đến nghỉ mát ở núi Lâm Viên Đà Lạt. Darles, đốc lý, được giao nhiệm vụ tổ chức một buổi tiệc trà với lý do họp mặt giữa người Pháp và một số thân hào nổi tiếng ở miền Nam đang làm ăn tại cao nguyên này.

Hai mẹ con cô Lan và anh ruột bà Nguyễn Hữu Hào, ông Denis Lê Phát An, từ Sài Gòn lên đây nghỉ mát từ vài hôm trước, cũng được gửi thiếp mời tới dự tiệc trà. Nể lời cậu, cô Lan đi dự nhưng không trang điểm, chỉ mặc áo dài bằng lụa đen mua bên Pháp. Trong buổi tiệc ấy, khi ông Darles đưa "ông cậu và cô cháu gái" đến giới thiệu, Hoàng đế đã bị chinh phục, nhìn cô không chớp mắt.

Sau bữa tiệc, Vĩnh Thụy trở lại Huế bẩm với bà Hoàng Thái hậu từ cung Hoàng Thị Cúc về chuyện gặp cô Lan và những dự định sẽ làm. Bà Cúc tỏ ra lo lắng, nét mặt u buồn, bởi cô Lan đi đạo, lớn lên ở châu Âu, không phải sống trong khuôn phép lễ giáo Việt Nam . Lại còn chuyện giáo dục con cái về tôn giáo, khi chúng lớn lên, được phong Hoàng Thái tử thì làm sao cử hành được việc thờ cúng liệt thánh hay lễ tế đàn Nam Giao? Không phải chỉ trong hoàng tộc và đình thần, cả trong dân chúng đều lo lắng, bàn tán xôn xao.

Vĩnh Thụy vẫn bất chấp, hôn lễ được cử hành vào ngày 20/3/1934, trước sự hiện diện của đình thần và đại diện nước Pháp, tại điện Cần Chánh. Triều đình đứng thành hàng dọc theo tấm thảm hai màu vàng, đỏ dành riêng cho hoàng đế. Lần đầu tiên trong lịch sử nhà Nguyễn, có một phụ nữ xuất hiện giữa triều đình.

Bà Nam Phương, tên trị vì do Bảo Đại đặt, có nghĩa “Người con gái phương Nam ”, mặc áo thụng, chân đi hài mũi cong, đầu đội vương miện đính 9 con phượng bằng vàng thật và nhiều ngọc châu óng ánh. Bà đi đến giữa tấm thảm, cả triều đình vái chào. Với một vẻ đẹp lộng lẫy, bà đi thẳng vào phòng lớn giữa lúc nhà vua đang ngồi trên ngai thấp ở đó. Hôn lễ ngắn gọn, đơn giản. Hoàng đế và hoàng hậu sánh vai bước đi trong tiếng nhạc mừng qua Tử Cấm Thành vào điện Kiến Trung, nơi ở và làm việc chính.

Sau này, họ có với nhau 5 người con: 2 hoàng tử và 3 công chúa.

Cuộc sống xa xứ



Cách mạng Tháng Tám thành công, Bảo Đại thoái vị cùng gia đình rời khỏi Đại Nội, tới ở cung An Định, bên bờ sông An Cựu. Thời gian sau, trong bối cảnh nhà Nguyễn đã suy vong, bà Nam Phương sang Pháp sống những năm tháng cuối đời.

Bà chọn Chabrignac, một làng quê trải dài trên vùng đồi có những mái nhà xám. Trên khu đất rộng 160 mẫu, bà xây một biệt thự bằng đá cẩm thạch ở giữa đồi, nuôi một đàn bò sữa ngót trăm con. Giữa đất khách, bà sống ẩn dật trong yên tĩnh với một tài sản chẳng ai bằng. Ngoài 2 chung cư lớn ở Neuilly và đại lộ Opéra (Paris), bà còn sở hữu nhiều nhà đất ở các nước Maroc, Congo, cùng nhiều ngọc ngà, châu báu.

Dân làng Chabrignac kể rằng, bà Nam Phương giàu có, nhưng sống thiếu hạnh phúc. Bao nhiêu năm chỉ thấy cựu hoàng Bảo Đại về thăm Hoàng hậu mấy lần, lần được nhớ nhất là vào dịp lễ cưới của Phương Liên kết hôn với chàng trai Bordelais. Buồn nản vì tình cảm của mình, bà Nam Phương chỉ sống âm thầm trong ngôi nhà vắng vẻ. Họa hoằn bà mới về thăm Paris vài ngày. Có lẽ vui nhất là dịp nghỉ hè, các con mới có dịp về thăm bà.

Một lần, sau chuyến đi chơi về, bà thấy đau cổ. Bác sĩ tới thăm bệnh, nói bà bị viêm họng nhẹ. Không ngờ sau đó, bà bị khó thở. Ông quản gia và mấy cô giúp việc vội chạy đi tìm bác sĩ khác ở làng bên, cách mươi cây số. Nhưng bà càng khó thở hơn và trái tim bà đã ngừng đập ở tuổi 49. Đó là ngày 14/9/1963.

Trong giờ phút lâm chung, ngoài những người giúp việc, bên cạnh bà không có một người thân. Đến viếng bà là những người có mối quan hệ gần gũi như công chúa Như Lý, con gái Vua Hàm Nghi, và vài viên chức thuở xưa làm việc với cựu hoàng Bảo Đại, ông tỉnh trưởng Pháp cùng mấy vị dân biểu. Báo chí Việt Nam tới hàng chục năm sau vẫn không biết hoàng hậu cuối cùng của triều Nguyễn mất bao giờ.

Đám tang bà hoàng hậu thưa thớt, vắng vẻ, không tiếng khóc than, không lời ai điếu. Nấm mộ đơn sơ đặt trong nghĩa trang của nhà thờ ngay tại Chabrignac, kém cả những ngôi mộ xây đủ hình khối ở ngay bên cạnh.

Người tới thăm viếng có thể nhìn tấm bia, mặt trước ghi mấy dòng tiếng Pháp: “Ici, repose l"impéreatrice d"Annam née Jeanne Mariette Nguyễn Hữu Thị Lan”. (Đây là nơi an nghỉ của bà Hoàng hậu Việt Nam tên là Jeanne Mariette Nguyễn Hữu Thị Lan). Mặt sau tấm bia khắc dòng chữ Hán: “Đại Nam Nam Phương Hoàng hậu chi mộ” (mộ phần bà Hoàng hậu Nam Phương của nước Đại Nam ).

(Theo CAND)

Việt Báo (Theo_VnMedia)

Đọc thêm!

Thứ Năm, 26 tháng 11, 2009

THƠ TRỮ TÌNH XERGÊY ÊXÊNIN

NGUYỄN TRỌNG TẠO chọn dịch và giới thiệu

(Hoàng Ngọc Hiến và Ngọc Đào hiệu đính)

ĐÔI LỜI KHI XEM LẠI BẢN DỊCH

Năm 1980, trong khi học tiếng Nga, tôi mượn được của anh Nguyễn Ngọc Đào tuyển tập Thơ và Trường ca của X. Esenin. Tôi vốn rất thích nhà thơ huyền thoại này, nên đã cố gắng tập dịch thơ để học. Nhưng thơ Esenin có rất nhiều từ cổ rất khó, tôi đến nhờ anh Đào chỉ dẫn, vì anh là tiến sĩ Sử học ở Nga thông thạo ngôn ngữ Nga cổ. Anh Đào lại khá yêu thơ, nên trong khi chỉ dẫn, anh đã dịch nghĩa cho tôi khá nhiều bài thơ khiến tôi vô cùng thích thú.

Chính vì thế mà suốt một tháng liền, tôi đã say mê dịch được gần 40 bài thơ và trường ca của Esenin. Phải thú thật rằng, mỗi lần dịch xong một bài thơ, tôi thấy hứng khởi như chính mình vừa làm ra bài thơ đó. Tôi đưa bản dịch nhờ anh Đào xem lại. Anh Đào rất thú vị về sự cố gắng của tôi, chỉ dẫn cho tôi những chỗ sai hoặc chưa sát ý, và tôi đã làm theo sự chỉ dẫn của anh. Sửa chữa xong, tôi nhờ anh Đào xem lại lần cuối, rồi nhờ anh Hoàng Ngọc Hiến xem lại một lần nữa. Hai anh đều bảo bản dịch rất có cảm xúc. Được động viên, tôi liền viết một bài viết dài về Esenin đính kèm theo bản dịch thơ. Hồi đó ở ta chưa hề in thơ Esenin thành tập, mà chỉ được đọc một số bài thơ dịch in rải trên báo chí của các nhà thơ như Xuân Diệu, Tế Hanh, Bằng Việt, Anh Ngọc… Vì vậy bản dịch đánh máy của tôi được một số bạn bè mượn xem, và có người đã cẩn thận chép lại. Có người bảo tôi đưa in, nhưng với vốn tiếng Nga quá hạn hẹp, tôi không đủ tự tin để đưa bản dịch cho các tòa soạn báo. Bản dịch này đã nằm trong lai cảo của tôi suốt 25 năm nay.
Khi tìm kiếm những bản thảo cũ, tôi bắt gặp tập bản thảo này. Một số bài đã bị thất lạc, chỉ còn lại gần 30 bài. Sau 25 năm, đọc lại bản dịch xưa, tôi vẫn nhận lại được những cảm xúc tươi tắn thuở nào. Và tôi nghĩ rằng, bản dịch này có thể cung cấp thêm cho bạn đọc một số bài thơ Esenin chưa hề được giới thiệu ở ta, bên cạnh một số bài đã có người dịch mà tôi đã mạo muội dịch lại theo cảm xúc riêng của mình. Hy vọng góp thêm một chút xíu cho những ai muốn tìm hiểu Esenin, một hồn thơ tuyệt vời của đồng quê Nga đầu thế kỷ XX.

Hà Nội, 24.9.2006

XERGÊY ÊXÊNIN
NHÀ THƠ CỦA THIÊN NHIÊN VÀ CON NGƯỜI

X. Ê-xê-nin sinh ngày 21 tháng Chín năm 1895 tại làng Ku-dơ-min-xki, thuộc tỉnh Ria-dan của nước Nga. Năm lên năm tuổi, cái tuổi có thể tự mình cắp sách đến trường, cậu bé Ê-xê-nin cũng đặt bước chân thơ trẻ của mình vào thế kỷ XX. Lên chín tuổi, Ê-xê-nin đã bắt đầu làm thơ, nhưng đến năm 18 tuổi, thơ anh mới được đăng báo. Những bài thơ về thiên nhiên làng quê Nga của anh từ đó làm xôn xao dư luận người đọc, và lập tức, anh trở thành một nhà thơ nổi tiếng, được đặc biệt hâm mộ. Đúng như lời tâm sự của Ê-xê-nin với mẹ từ trước, trong một bài thơ nho nhỏ của mình:
Ngày mai mẹ thức con dậy sớm

Mở cửa ra cho ánh sáng vào nhà

Người ta bảo con sắp thành thi sĩ

Nổi tiếng, và, một thi sĩ người Nga.

Phải chăng, người ta hâm mộ thơ anh vì thơ anh đẫm ướt tâm hồn Nga? Điều đó quá rõ ràng. Cho đến nay, trước những cửa hàng sách, người ta vẫn sắp hàng dài để mua thơ Ê-xê-nin khi thơ của anh vừa được tái bản. Chỉ tính trong những năm sáu mươi (thế kỷ XX), tuyển tập thơ Ê-xê-nin đã được tái bản nhiều lần ở Liên Xô với số lượng 12.000.000 bản, và chỉ đủ bán cho những người đã đặt hàng trước.

Thơ Ê-xê-nin giàu nhạc điệu, được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc, và là những bài hát hay. Người ta cũng sáng tác khá nhiều bài hát về Êxênin rất được thanh niên Liên Xô ưa thích.

Êxênin là nhà thơ lớn của Nga và Liên Xô. Khi nhắc đến nền thơ Xô-viết, người ta thường kể đến Ê-xê-nin cùng với Blốc, Maiakôvxki. Êxênin cũng là nhà thơ lớn của thế kỷ XX, tiếc rằng, cuộc đời nhà thơ kết thúc quá sớm – Ê-xê-nin qua đời năm 30 tuổi.

*

Trong “Chân dung văn học”, khi viết về Ê-xê-nin, nhà văn Gorki kể lại rằng, cái chết của Ê-xê-nin đã làm sống lại trong ký ức của ông câu chuyện một cậu thiếu niên nông dân tình cờ đến thành phố Kralốp trên đảo Capri và bị lạc trong thành phố này. “Cậu ta đi loanh quanh mãi trên các phố, không sao thoát ra ngoài để trở về cảnh đồng rộng quen thuộc của cậu. Và cuối cùng, cảm thấy thành phố không chịu buông tha mình, cậu đã quỳ xuống đọc kinh cầu nguyện và đứng trên cầu nhảy xuống sông Vixoa, hy vọng dòng sông sẽ đưa mình trở về đồng ruộng. Người ta đã vớt được cậu bé lên, nhưng cậu đã chết vì những vết thương của mình…”.

Ê-xê-nin cũng có thể chết một cách ngây thơ đến tuyệt đẹp giống như cậu thiếu niên kia, nếu như vì một lý do gì đó buộc anh phải lìa xa tình yêu nông thôn Nga của mình. Tình yêu nông thôn Nga của anh là hàng trăm bài thơ của anh, nông thôn mà ở đó những ngôi nhà gỗ tuyết phủ trắng mùa đông, những cánh đồng vàng ánh trăng mùa gặt, những dòng sông, ngọn núi, hàng cây luôn phát ra một thứ ánh sáng rực rỡ sắc màu, những đàn bò, con chó, bầy gà luôn gần gũi như bạn bầu thân thiết, và đặc biệt là những người nông dân gắn cả cuộc đời với ruộng đồng, với nước Nga tươi đẹp đượm buồn. Cảnh và người của nông thôn trong thơ Ê-xê-nin sống động đến kỳ lạ. Bởi vì, nó luôn sống động trong hồn anh:

Và thơ con có một dòng sữa chảy
Dòng sữa của đàn bò của mẹ, của nhà ta

Đủ biết Ê-xê–nin yêu mẹ và yêu đàn bò đến nhường nào. Tình yêu ngỡ có thể trông thấy được, trắng trong và chầm chậm. ngọt ngào rỏ vào lòng người như dòng sữa chảy miệt mài qua năm tháng. Có được sự sống động ấy chính là nhờ tấm lòng cảm thông hoà nhập sâu sắc với cuộc đời, và đặc biệt là đối với tất cả mọi sinh vật ở chung quanh nhà thơ. Phải nói, Ê-xê-nin là người cảm thông thương yêu mọi sinh vật như đọc được mọi buồn vui của chúng. Đối với anh, buồn vui của mọi sinh vật là buồn vui của chính mình. Những nỗi buồn vui ấy trong thơ anh được thể hiện một cách tài tình tuyệt vời với những hình ảnh có sức lay động lạ lùng như là chỉ có ở một con người được sáng tạo ra với tư cách là một cơ quan của thiên nhiên và chỉ để làm thơ về thiên nhiên mới có thể nhận bắt được. Gorki đã một lần nhận xét như vậy. Ta hãy nghe Ê-xê-nin tả vầng trăng mà con chó mẹ bỗng nhìn thấy sau khi bầy chó con mới đẻ của nó vừa bị người ta bắt mang đi một cách tàn nhẫn:

Trên mái nhà, trăng mọc

Giống như một chó con.

Và Ê-xê-nin nhận thấy chó mẹ khóc:

Đôi mắt nó bỗng lăn

Những sao vàng xuống tuyết:

Ở một bài thơ khác, Ê-xê-nin lại thấy:

Sáo vừa đi vừa chạy

Trên đất cày đồng xa

Tại sao lại có thể thấy được sáo vừa đi vừa chạy chứ không phải là sáo chỉ đi hoặc là chỉ chạy? Tôi có cảm giác như lúc khởi lên câu thơ này, Ê-xê-nin phải hoà tan mình vào trong những luống đất màu mỡ vừa được lưỡi cày lật lên để ngắm nhìn những con sáo đang cuống quýt nhặt mồi vậy.

Không có sự cảm thông ghê gớm với muông thú, làm sao Ê-xê-nin có thể viết được những câu thơ như thế này:

Một tiếng quạ kêu mờ

Trong sâu thẳm sâu hồ nước
Một con gà rừng đen

Gọi đêm về chậm chạp

Hoặc:

Và ngoài sân bao con gà cộc

Đang gáy lên bài hát ban trưa

Qua đôi mắt và tâm hồn Ê-xê-nin giữa những sinh vật cũng có sự cảm thông đặc biệt với nhau:

Với tôi, đàn bò hiền

Luôn gật gù trò chuyện

Khiến cây sồi trẻ lại

Buông cành xuống dòng sông

Nhắc đến Ê-xê-nin cũng có nghĩa là nhắc đến thiên nhiên Nga của anh. Có nhiều nhà văn nhà thơ Nga đã dành cả đời mình cho thiên nhiên Nga, nhưng Ê-xê-nin có tài kỳ lạ trong việc vẽ phong cảnh bằng những câu thơ giản dị. Những bức tranh thiên nhiên của anh là những bức tranh thuốc nước, màu sắc thật là hài hoà, nhưng không phải vì thế mà thiếu đi những ấn tượng độc đáo. Chính sự kết hợp hài hoà màu sắc và bố cục, làm tôn lên một cách bất ngờ cái anh định tập trung mô tả. Và nhờ vậy, xem những bức tranh thiên nhiên Nga của anh, người ta mãi nhớ nó và mãi còn run rẩy lên vì nó. Hình ảnh mà ta dễ nhớ nhất của anh là cây cỏ. Cây cỏ trong thơ Ê-xê-nin lúc nào cũng ánh lên, phát sáng lung linh. Hầu như ánh sáng từ cây cỏ là sự phản chiếu ánh lửa từ đôi mắt thăm thẳm của thi sĩ. Có người nhận xét rằng, Ê-xê-nin có đôi mắt cháy rực một ánh lửa buồn rười rượi. Nhận xét ấy dường như không thật thoả đáng với những bài thơ anh viết ở tuổi thiếu niên. Nhưng dù sao thì đôi mắt của Ê-xê-nin cũng có lửa, và nhờ vậy nó đã khiến cho thiên nhiên phát sáng lung linh chung quanh anh. Sự phát sáng này xảy ra rất nhiều lần trong thơ Ê-xê-nin:

- Muôn chồi non ngậm tuyết

Chĩa bạc lên nền trời

- Và hạt tuyết vẫn cháy

Trong ánh lửa bằng vàng

- Còn bình minh chậm rãi

Đi vòng theo chung quanh

Với muôn vàng bạc mới

Rắc êm lên lá cành

- Trên gò đất cây bạch dương, cây bạch dương

Trong trăng sáng lên như thanh bạc

- Bên cửa sổ một ánh trăng. Bên cửa sổ một ngọn gió

Thổi vào cây bạch dương – cây nến, cây bạc của tôi



Tài quan sát của đôi mắt có lửa Ê-xê-nin quả là không lẫn với ai khác. Sự độc đáo của thơ anh đôi khi làm người đọc sửng sốt, đến phải xuýt xoa:

… Ở xa kia về phía dòng sông

Như một giải nẹp viền lông thú

Câu thơ không dùng đến một tính từ chỉ màu sắc nào, vậy mà cảnh vật hiện lên hết sức rõ nét trong các mảng tối, sáng của nó. Và đây là những đống cỏ trên cánh đồng bên sông lúc hoàng hôn xuống:

Màu hung những đống cỏ

Trông giống bao nhà thờ.

Tài quan sát của Êxênin thật lạ, thật tinh vi:

Rừng ngập hoàng hôn xanh

kín cả từng quãng trống.

Không gian trong thơ Êxênin là một không gian rực rỡ sắc màu. Sắc màu của không gian trước hết là màu sắc của mặt trời. Ê-xê-nin ít tả trực tiếp về mặt trời, không phải vì mặt trời quá chói chả khiến mắt anh không thích nhìn mãi vào nó, mà vì anh biết cái đáng quan tâm nhất của mặt trời là cái gì. Đó là ánh sáng. Và trong muôn vàn ánh sáng do mặt trời toả chiếu, anh đặc biệt quan tâm đến bình minh và hoàng hôn. Nói đến bình minh và hoàng hôn cũng chính là nói đến mặt trời.
Hoàng hôn như một quyển kinh thánh đỏ

Đang cầu nguyện những tin lành.

Thi sĩ Ê-xê-nin 15 tuổi đi trong ánh “bình minh cháy đỏ mặt hồ”, đã thấy:

Bên đường muôn đốm nắng bay

Và tôi ngập giữa mê say sắc màu
Tôi hôn bông nắng đỏ au

Ngất ngây xin giữ mai sau cho mình.

Tại sao lại giữ cho mình? Bởi những tia chớp hạnh phúc không phải lúc nào cũng có được dễ dàng.

Đấy là biểu hiện của một tâm hồn khát khao hạnh phúc. Đối với Ê-xê-nin, bình minh là biểu tượng cho tương lai tươi sáng, cái tương lai đẹp đẽ trong giấc mơ của cậu bé chăn bò:

Quên đi nỗi nhọc nhằn
Tôi ngủ trên khúc gỗ

Trong mơ, bình minh đỏ

Rước lễ bên suối trong.

Và chính ánh sáng của mặt trời ấy góp công cùng thi sĩ tô điểm màu sắc cho không gian tuyệt diệu thêm lên. Những làn mây, ngọn gió luôn ánh lên màu sắc lạ:

- Mây phồng xốp bọt vàng

Cuộn tròn trên rừng vắng

- Gió thổi nhẹ đường cầu vồng vàng rực

Dưới những làn mây xốp đồng quê.

Nhưng trong không gian thiên nhiên này, trăng dường như được Ê-xê-nin miêu tả với xúc cảm thần tình lạ lùng nhất. Thơ cổ kim đông tây đã mang đến cho con người biết bao vầng trăng kỳ diệu rồi, vậy mà vầng trăng tuyệt đẹp này của đồng quê tưởng khó mà gặp được nếu không có thi sĩ Ê-xê-nin trên đời này:

Trăng như quả lắc bằng vàng

Nhịp thời gian đổ mơ màng mưa êm.

Và đây, lại một vầng trăng kỳ lạ nữa:

Ôi, giá được mỉm cười trên đống rạ

Dùng miệng của vầng trăng nhai cọng rơm này.

Ta có thể gặp trăng rất nhiều lần trong thơ Ê-xê-nin, vầng trăng nào cũng lạ, ánh trăng nào cũng lạ. “Và ánh trăng đã buông – Những dây cương vàng chói”… Tôi muốn trích thêm nhiều nữa, nhưng thật không nên làm cái công việc tẩn mẩn ấy. Chỉ biết là, trăng luôn ám ảnh Ê-xê-nin suốt cuộc đời thi sĩ, như là trường hợp Hàn Mặc Tử ở ta vậy. Trong thơ Ê-xê-nin, ánh trăng luôn tràn trề, nhưng đấy là thứ ánh trăng không vương bụi, ánh trăng trong suốt. Nỗi ám ảnh ấy khiến Ê-xê-nin viết được một câu thơ rất lạ:

Chiếc mũ sau vòm cây – vầng trăng lặn muộn.

Cho đến năm cuối cùng cuộc đời, vầng trăng vẫn ám ảnh thi sĩ, mặc dù khi ấy, vầng trăng đối với anh không còn tươi đẹp như xưa nữa, mà day dứt một nỗi buồn ảm đạm. Tuy vậy, cái vầng trăng buồn vẫn hiện lên trong thơ anh như là nó chỉ hiện lên một lần duy nhất trong vũ trụ:

Đồng nội tuyết, một mặt trăng màu trắng.

Mặt trăng buồn đến lạnh người, mặt trăng màu trắng, nhưng đó vẫn là cái nỗi buồn dịu muốt – nỗi buồn Ê-xê-nin.

Nếu tả thiên nhiên mà chỉ để tả thiên nhiên thôi, thì dù có tài hoa đến mấy, cũng mới là tài hạng hai. Thiên nhiên trong thơ Ê-xê-nin là thiên nhiên của lòng người hoà nhập. Nói cách khác, thiên nhiên đã thở bằng hơi thở Êxênin, sống bằng sức sống Ê-xê-nin, cảm và nghĩ bằng trái tim thi sĩ. Sự tả cảnh trong thơ Ê-xê-nin bao giờ cũng như để chuẩn bị cho một cái gì đó sâu xa hơn, nói chính xác là sự tả cảnh tự mang trong nó cái gì sâu xa ấy. Đó là lòng người. Bài thơ “Đã chiều rồi” viết năm 15 tuổi, khi Ê-xê-nin đứng “ngả đầu vào dương liễu bên đường” nhìn ra cánh đồng làng là một bài thơ giàu mẫn cảm, giàu tâm trạng. Ở đây, Ê-xê-nin không có ý định phản ánh hiện thực già nua của nước Nga khi tả cảnh đồng quê, nhưng chính sự mẫn cảm thi sĩ đã làm sống lại hiện thực này:

Ở xa kia về phía dòng sông
Như một giải nẹp viền lông thú

Có cụ già gác đồng buồn ngủ

Gõ triền miên vào chiếc mõ đã già.

Ở một bài khác, một bài gần như hoàn toàn tả cảnh, vậy mà khi kết thúc bài thơ, một hồn người bỗng hiện lên, choáng ngợp cảm xúc của ta:

Anh cầu mong thầm lặng
Cho số phận của em!

Người ta say mê thiên nhiên trong thơ Ê-xê-nin là bởi vậy. Tấm lòng nhà thơ luôn được ký thác vào thơ một cách đắm đuối nhất. Niềm vui đắm đuối đã đành, nỗi buồn cũng đắm đuối. Bạn cứ tưởng tượng xem, có một con người không hề yêu cũng không hề ghét… Thật vô duyên biết chừng nào! Tôi không muốn nói thiên nhiên trong thơ Ê-xê-nin là một thiên nhiên tuyệt vời duyên dáng, nhưng kỳ thực là vậy, bởi nó chứa một tâm hồn cao đẹp được bộc lộ đến tận cùng với vẻ duyên dáng trời cho.

Cây rung lên khe khẽ

Anh đã yêu tiếng động buồn, có lẽ

Trước mùa thu.

Đấy, Ê-xê–nin đã trò chuyện với cây dương – với thiên nhiên như vậy đấy, như là trò chuyện với người tình say đắm của mình!

*

Nếu như con người là đối tượng đáng được hưởng sự cảm thông, lòng yêu thương hơn tất cả mọi vật, thì Ê-xê-nin là nhà thơ đã dành hết thảy sự cảm thông, lòng yêu thương của mình cho con người. Suy cho cùng sự cảm thông, lòng yêu thương của anh đối với mọi vật cũng chính là một biểu hiện vì con người mà thôi. Năm cuối cùng của đời mình, Ê-xê-nin vẫn ca hát cề con người:

Đất nước màu xanh. Và vui làm sao

Tâm hồn tôi bán cả cho bài hát

Như vì Ghe-li-a trong bóng những vòm cây.

Con chim sẻ ôm hoa hồng thơm ngát.

Trước đó 13 năm, trong bài thơ “Nhà thơ”, Ê-xê-nin từng khẳng định:
Ai đã yêu con người như thể những anh em

Và cả quyết dám khổ đau vì họ?

- Nhà thơ

Nhà thơ đã tự do làm tất cả

Mà bao nhiêu người khác chẳng thể làm.

Nhưng chúng ta cũng có thể dễ dàng nhận thấy, con người trước hết trong thơ Ê-xê-nin là con người nông dân, những con người gần gũi với thi sĩ từ thuở anh mới lọt lòng mẹ. Và thực ra, chính anh cũng là một tế bào trong cộng đồng làng quê nông dân ấy. Cho nên, sự đồng cảm của anh với những con người nông dân dường như là sự đồng cảm tuyệt đối. Anh hiểu người mẹ khi ở “Trong nhà”, “Mẹ không bao giờ nghỉ ngơi – Dáng lưng còm đi lại”, và khi đứa con đi xa, mẹ luôn mong ngóng tin con:
Quãng đường vắng mẹ thường đi

Mình choàng chiếc áo dân quê bông sờn.

Khi xa nhà, anh tự hỏi “ở đâu nhà của bố tôi – Tấm lưng còm sém nắng trời tháng, năm”, và khi trở về nhà sau bao năm xa cách, anh bỗng ngỡ ngàng trước đứa em gái “không một chút ngại ngần – Mở quyển sách to như Kinh thánh – Quyển Tư bản – Và nói về CácMác – Nói về Ăngen…” – Ở đây, sự ngỡ ngàng xảy ra bởi những gì quá quen thuộc trước đó mà thôi. Sự đồng cảm lớn với người nông dân đã giúp Ê-xê-nin phát hiện ra những vẻ đẹp ẩn giấu trong họ từ lâu. Đấy là câu chuyện riêng tư của người chăn bò với cây dương liễu tơ non bên hồ nước vắng vẻ. Ê-xê-nin nghe được người chăn bỏ hỏi cây dương: “Gió đã thì thầm gì với em – Cát đã nói gì với em?...” Người ta có thể hỏi những lời như vậy không đến nỗi khó khăn lắm, nhưng nghe được những câu trả lời như thế này của cây dương thì không phải ai cũng dễ dàng nghe được:

“Ôi, người bạn tò mò ơi

Ở đây dưới đêm sao

Có một người chăn bò vừa khóc.

Khi ánh trăng trang sức

Trên những tán cây xanh

Anh ấy đã ôm tôi thật chặt

Đôi bắp chân cóng rét để trần.

Cứ như vậy anh thở dài não ruột

Nói dưới tiếng động của lá cành:

- Vĩnh biệt bồ câu của anh

Đến những mùa chim sếu!…”

Đấy là sự phát hiện tài tình ra hạnh phúc của những người nông dân trong lao động vất vả cực nhọc của họ, cái niềm hạnh phúc mà nếu là người không có sự đồng cảm sâu sắc với người nông dân, không thể nào thấy được:

Hạnh phúc cho những người khi nhận thấy

Niềm vui trong nỗi buồn chăn bò của mình.

Tôi muốn nhắc lại một lần nữa: Niềm vui trong nỗi buồn chăn bò của mình… Và cũng chính vì vậy mà Ê-xê-nin, anh luôn mang trong mình niềm day dứt về sự lam lũ khổ đau, bị chà đạp tàn nhẫn của người nông dân Nga. Cho mãi về sau, khi nước Nga đã được giải phóng bằng Cách mạng tháng Mười, niềm day dứt ấy vẫn in đậm trong thơ Ê-xê-nin:

Sao rồi em, đồng nội của chúng ta

Ôi đồng nội mặn mà cát trắng
Và ai đó không lỗi lầm bị dẫm

Và đau thương có thật của ai xưa?

Tình yêu người nông dân cũng chính là khởi nguồn tình yêu con người nhân loại lớn trong thơ Ê-xê-nin. Con người, đối với Ê-xê-nin, nếu không có nó thì trái đất sẽ chỉ là một quả cầu chết. Ê-xê-nin là người biết nhận ra sự cô đơn ghê gớm khi chung quanh mình vắng bóng con người, hoặc trống vắng tình yêu của con người. Anh cảm thấy không thể ngủ được khi nằm một mình trong căn phòng giữa đêm mênh mông, và không thể chịu được sự cô đơn, anh thoát khỏi căn nhà để tìm đến với con người:

Đêm không ngủ. Đêm không ngủ

…….
Ra đi hỡi trái tim nhỏ của tôi

Nghe bài hát người chơi đàn guxli, nghe bài hát

Và khi đến được với con người rồi, không còn cô đơn nữa, nhà thơ sung sướng đến reo lên:

Tôi say đắm trong tuyệt vời vẻ đẹp

Của người con gái dưới trăng đêm

Tôi sẽ nhảy theo đàn guxli ấy

Và sẽ xé tan chiếc khăn cưới của em!

Dĩ nhiên là chàng trai Ê-xê-nin không xé tan chiếc khăn cưới của người con gái mà anh say mê ấy, nhưng tình yêu con người ở anh quả là đến mức có thể làm được điều ấy, thậm chí còn mạnh mẽ hơn nữa:

Tôi sẽ mang em vào tháp gỗ tối đen

Vào khu rừng xanh vào nơi xa vắng
Những sườn núi – tôi sẽ mang em đến

Bình minh cây anh túc mỉm cười.

Những đoạn thơ trên trong bài thơ Ê-xê-nin viết năm 16 tuổi, cái tuổi vừa qua thời niên thiếu để trở thành người lớn, cái tuổi mà tình yêu cuộc đời toát ra mãnh liệt nhất với sự tươi mới của nó. Nhưng không phải vì thế mà trở thành ngông cuồng, lố bịch. Đấy là sự hồn nhiên không thể cưỡng của tuổi trẻ, cũng là điều đáng cảm thông nhất của con người. Niềm cảm thông và tình yêu thương lớn của thi sĩ đã giúp Ê-xê-nin nhận ra được “trên sóng hào quang của sao – Những khổ đau đang ước vọng”, và càng tin yêu hơn “tiếng rì rào của dòng nước mạnh”. Lòng tin vào sự vươn tới của con người trong thơ anh thật mãnh liệt:

Có nghe không, hoa hồng đang gục xuống

Đang rữa tan. Bài hát vẫn vang lên?

Nói đến tình yêu con người trong thơ Ê-xê-nin, không thể không nhắc đến mảng thơ tình của anh. Đấy là những bài thơ tình vào loại “gối đầu giường”, cho đến bây giờ, nó đã được rất nhiều người thuộc như thuộc ca dao. Cái hay của những bài thơ tình này không chỉ ở nhạc điệu tuyệt vời mà người ta có thể dễ dàng hát lên được, cũng không phải vì nó mô tả những tâm trạng cô đơn tuyệt vọng của tình yêu éo le, rắc rối. Điều chủ yếu, đấy là những bài thơ của tình yêu rực cháy khát vọng hạnh phúc của tuổi trẻ. Và nó được ghi lại một cách chân thực. Cảm giác như là tình yêu của chàng trai Êxênin tràn trề như thế nào, thì những dòng thơ tình yêu của thi sĩ Ê-xê-nin cũng tuôn chảy tràn trề như vậy. Tình yêu như chỉ còn có hai người với nhau.

Nghe không em – xe trượt tuyết đang phi – nghe không em?

Tuyệt diệu làm sao, cùng người yêu biến vào cánh đồng êm

Đấy là niềm vui sướng không thể kìm lại được, phải thốt ra thành thơ. Để rồi cùng reo lên trước thiên nhiên bao la:

Ối, xe trượt tuyết! Xe trượt tuyết!

con ngựa hung nhạt của tôi
Không phải người say rượu đâu – ở xa kia

cây phong đang múa đó thôi

Và cuối cùng là:

Chúng tôi đến và hỏi rằng: Làm sao thế cây phong?

Rồi cùng nhảy với nhau – ba người – trên tuyết trắng

như bông.

Đấy chỉ có thể là tình cảm của người đang bốc men say. Nhưng đây không phải là men rượu, đây là men ái tình. Đối với Ê-xê-nin, tình yêu có thể làm cho người ta chấp nhận cây phong với tư cách một con người đồng điệu, một con người biết yêu say đắm và biết biểu hiện tình yêu ấy bằng sự múa nhảy nồng nàn.

Cao hơn tất cả những tình yêu bình thường phải là tình yêu với sự bộc lộ bản năng cao đẹp của con người. Nếu như bây giờ, người ta coi sự thật là biểu tượng cao cả của đạo đức, thì chính Ê-xê-nin, từ cách đây hơn nửa thế kỷ đã từng đốt lên một ngọn lửa bằng nhiên liệu sự thật trong những bài thơ tình của mình. “Tôi không nói cùng người yêu những lời không có thật”, câu thơ như một câu thề thốt, bởi nó không phải là sự thề thốt, nó là sự giãy bày với chính mình, thi sĩ Ê-xê-nin. Sự thật bao giờ cũng mang trong bản thân nó tính hồn nhiên tuyệt đối. Thơ tình của Ê-xê-nin cũng vậy.

Người yêu hỏi rằng: “Gió tuyết có không anh?

Để trải đệm? Hay đốt lò sưởi vậy?”
Tôi nói với người yêu: “Từ trên cao ấy

Đang có người tung hoa tuyết trắng tinh

Hãy đốt lò, hãy trải đệm đi em

Anh không em, tim anh như bão tuyết!”

Một lần khác, Ê-xê-nin lại quả quyết:

Bởi sinh ra là một thi sĩ

Anh sẽ hôn như thi sĩ mà thôi.

Có khi, ta bỗng ngạc nhiên đến sửng sốt, khi nghe Ê-xê-nin bộc lộ sự thật trong tình yêu của mình một cách chân thành đến quá mức tưởng tượng. Đấy là khi tình yêu đang dâng lên trong lòng anh trước một người con gái nơi xa lạ, và anh đã tỏ tình. Nhưng trong lời tỏ tình ấy, anh không hề dấu người con gái này, có một người con gái khác đang yêu anh:

Sa-ga-nê, em của anh, Saganê

Ở phương bắc cũng có người con gái

Trông rất giống em, chẳng khác gì

Cũng có thể đang nghĩ về anh đó

Saganê, em của anh, Saganê!…

Hẳn là Saganê không nỡ chối tấm lòng chân thật đến nhường kia của người thi sĩ.

Và đây, lại là một sự thật khác, một sự thật vừa cay đắng, vừa cao thượng:

Khi mân mê bàn tay, đừng làm méo đi nụ cười

Tôi yêu người khác mà chẳng yêu em

Ôi, em biết, và chắc em biết lắm

Tôi không phải nhìn em, cũng chẳng đến với em đâu
Tôi chỉ đi qua với trái tim lặng lẽ

Và cũng chỉ ngoái nhìn qua cửa sổ mà thôi.

Người đời thường cho rằng, những ai chỉ sống với bản năng thì rốt cuộc chẳng làm nên được trò trống gì. Nghĩa là anh ta thiếu sự kìm chế của ý thức, và bởi vậy mà tự cắt đứt những sợi dây ràng buộc với xã hội. Nhưng bản năng tâm hồn Ê-xê-nin thì khác, đấy là cái bản năng người nhất, cái bản năng mà tự nó là một sự cao thượng, vừa đáng kính nể lại vừa dễ gần gũi. Đấy là khi đang yêu say đắm, anh nói với người yêu:

Người ta yêu em đến sờn mòn

Người ta chiều em đến nhàu nát.

Hoặc là khi anh nói với người yêu đã bỏ anh mà đi:

Sợ chi một chuyện đau lòng

Tôi cần nhiều, cũng chẳng mong chi nhiều.

và:

Tôi không phải kẻ mê say
Bằng âu yếm lúc cầm tay, sát kề

Vậy mà tình yêu vẫn cứ day dứt anh mãi:
Mà nụ cười – lạ lùng sao

Cứ như bão tuyết xoáy vào tim tôi!

Tại sao nỗi buồn cứ đeo đẳng thi sĩ như bóng với hình khi tưởng như đáng lẽ phải tức giận vì nó? Vì Ê-xê-nin biết trân trọng tất cả tình yêu của mình, đấy là những gì trong sáng, đẹp đẽ và hồn nhiên nhất. Không phải ai cũng dễ dàng có được một tình yêu thực sự để rồi được day dứt mãi về nó khi nó không còn quay lại nữa. Có cảm thông như vậy ta mới có thể thấm thía sâu sắc nỗi buồn của thi sĩ trong câu thơ anh viết:

Và bây giờ, đối với người yêu, tôi chẳng là gì

Tôi khóc tôi cười trong bài hát không hề thân thuộc

*

Nỗi buồn của Ê-xê-nin khi thì tràn ngập và nặng nề như mây chì, bão tuyết, khi thì phảng phất như những làn gió nhẹ trên đồng lúa mênh mông quạnh vắng cuối hoàng hôn. Nỗi buồn ẩn hiện trong cả những bài thơ trữ tình vui tươi lẫn trong những bài thơ cách mạng khoẻ khắn. Nhiều khi, nỗi buồn thi sĩ cũng đượm vẻ bi tráng:

Đêm như đêm nay

xanh nhờ

trên Ba-ku

26 bóng đen

bóng đen của 26 người ấy

26

nỗi đau của chúng ta

bài hát của chúng ta.

Nhưng bao trùm Ê-xê-nin vẫn là nỗi buồn người. Nỗi buồn tưởng như không thể nào thắng nổi. Ê-xê-nin cũng đã nhiều lần nhận thấy tai hoạ của nỗi buồn. Và anh ngang tàng chỉ trích, và ngang tàng tuyên chiến với nó:

Tàn bạo và kiêu hãnh

Dáng điệu mới luôn luôn

Xưa máu đầy trong miệng

Nay máu đầy trong hồn

Tôi không nói với mẹ

Mà với cả mọi người

- Tôi vấp vào hòn đá

Ngày mai sẽ lành thôi

Ngay cả khi đứng trước tượng Puskin, nhà thơ mà anh rất kính trọng nhưng đã kết thúc số phận bằng sự chiến bại trước nỗi buồn, Ê-xê-nin muốn khẳng định ý chí của mình:

Nhưng tôi là một người trong xua đuổi

Tôi phải còn, và phải hát không ngừng

Để những bài hát của tôi về đồng nội

Mãi rung lên như tiếng ngân đồng.

Một lần khác, anh đã thét lên xua đuổi nỗi buồn, như là đã vĩnh biệt nó lần cuối cùng:

Bây giờ đây dù ai có các vàng

Tôi cũng không muốn lại nghe điệu nhạc kia não ruột.

Oái oăm thay, cái điệu nhạc của nỗi buồn não ruột kia vẫn đeo đuổi thi sĩ như một định mệnh. Và Ê-xê-nin đã không sao chiến thắng nổi nó; câu thơ cuối cùng anh để lại là một bằng chứng của sự thất bại này:

Trên đời này, chết phải đâu là mới

Nhưng sống, tất nhiên, cũng chẳng mới hơn gì!

Cái chết đầy bi kịch của tính cách Ê-xê-nin như là không thể khác được. Bạn đọc của anh không ai muốn anh chết như vậy. Anh đã mang đi bao nhiêu bài thơ mà đáng lẽ chúng ta còn có thể được đọc và được buồn vui nhiều thêm lên trong cuộc đời, những tháng ngày mà chúng ta được sống trên trái đất này.

Những bông hoa đến từ biệt cùng tôi

Cúi thấp xuống những mái đầu xinh nhỏ

Mặt người yêu và mảnh đất ông cha

Tôi mãi mãi sẽ không còn thấy nữa



Chẳng còn gì hơn, rồi lại có người

- Nỗi buồn cũ cần chi cho kẻ chết

Một người khác sẽ cất lời hát tiếp

Cho người tôi yêu còn bỏ lại trên đời

Người tôi yêu sẽ yêu lại một người

Và tiếp nhận bài ca kia lặng lẽ

Có thể đôi khi nhớ về tôi nhỉ

Như một cánh hoa không lặp lại bao giờ.

Đúng như vậy, thơ Ê-xê-nin không lặp lại dọc thời gian, nó luôn luôn mới mẻ như vừa được sinh ra. “Con người của tương lai sẽ đọc Ê-xê-nin như nhân dân hiện giờ đã đọc anh. Sức sống mãnh liệt của thơ anh đã nói nhiều với họ” – (nhận định của nhà thơ N.Ti-khô-nốp).

Thơ Ê-xê-nin sống mãi là vì vậy. Rồi người những đời sau có thể quên đi rằng, trước khi đến yên nghỉ tại một nghĩa trang ở Lêningơrat, tháng 11 năm 1925, quan tài Ê-xê-nin đã được đưa quanh tượng đài Puskin… nhưng người ta sẽ không bao giờ quên thơ anh, những bài thơ thuộc về thiên nhiên và con người trên trái đất.
Hà Nội, tháng 11-1981
NGUYỄN TRỌNG TẠO
THƠ
NGÀY MAI MẸ THỨC CON DẬY SỚM

Ngày mai mẹ thức con dậy sớm

Ôi mẹ thân yêu, mẹ tảo tần

Để con sẽ đi ra cồn đất nhỏ

Đón gặp người bạn quí của con

Và hôm nay con thấy ở cánh đồng

Những vệt bánh xe in trên cỏ ướt

Gió thổi nhẹ đường cầu vồng vàng rực

Dưới những làn mây xốp đồng quê

Ngày mai bình minh bạn con sẽ ra đi

Vành mũ sau vòm cây – vầng trăng lặn muộn

Và con bò đứng nhìn theo tha thẩn

Ve vẩy đuôi trên đám cỏ ven đường

Ngày mai mẹ thức con dậy sớm

Mở cửa ra cho ánh sáng vào nhà

Người ta bảo con sắp thành thi si

Nổi tiếng, và, một thi sĩ người Nga

Con sẽ hát về mẹ và về bạn

Người chăn bò, bếp lửa, đàn bò

Và thơ con có một dòng sữa chảy

Dòng sữa của đàn bò của mẹ, của nhà ta.

1917

ĐÃ CHIỀU RỒI

Đã chiều rồi

Sương muối vàng óng ánh

Phủ xuống cây tầm-ma một mình trên đồng vắng

Tôi ngả đầu vào dương liễu ven đường

Trăng lên như khác với lệ thường

Rót ánh sáng về mái nhà tôi ở

Và đâu đây có bài ca chim sẻ

Tôi nghe từ xa xa…

Thật tuyệt vời và ấm cúng dường bao

Như mùa đông bên bếp lửa

Và cây dương một mình đứng đó

Giống làm sao ngọn nến lớn giữa đồng!

Ở xa kia, về phía dòng sông

Như một dải nẹp viền lông thú

Có cụ già gác rừng buồn ngủ

Gõ triền miên vào chiếc mõ đã già…

1910

CÂY BẠCH DƯƠNG

Cây bạch dương đứng đấy

Bên cửa sổ nhà tôi

Muôn chồi non ngậm tuyết

Chĩa bạc lên nền trời

……

Cây bạch dương đứng đấy

Trong im lặng mơ màng

Và hạt tuyết vẫn cháy

Trong ánh lửa bằng vàng

Còn bình minh chậm rãi

Đi vòng theo chung quanh

Với muôn vàng bạc mới

Rắc êm lên lá cành…

1913

CÁNH ĐỒNG ĐÃ GẶT

Cánh đồng đã gặt, rừng nhỏ trụi trơ

Nước dâng hơi ẩm, ướt mờ sương giăng

Mặt trời lặng lẽ một bánh xe lăn

Khuất dần sau dãy núi xanh xa mờ

Nằm lim dim ngủ con đường gồ ghề

Đường hôm nay nói lời gì xa xăm

Chẳng bao lâu nữa, chắc hẳn rất gần

Đợi chờ trắng xoá mùa đông sắp về

Và trong rừng rậm tôi gặp bất ngờ

Hôm qua ở giữa sương mờ hiện lên

Trăng hung hung đỏ thành chú ngựa xinh

Trong xe trượt tuyết của mình đang phi.

1917-1918

CƠN NƯỚC LŨ CUỐN BÙN

Cơn nước lũ cuốn bùn

Tạo thành từng vệt khói

Và ánh trăng đã buông

Những dây cương vàng chói

Tôi ngồi trên xuồng máy

Rẽ sóng cập vào bờ

Màu hung, những đống cỏ

Trông giống bao nhà thờ

Một tiếng quạ kêu mờ

Trong thẳm sâu hồ nước

Một con gà rừng đen

Gọi đêm về chậm chạp

Rừng ngập hoàng hôn xanh

Kín cả từng quãng trống

Anh cầu mong thầm lặng

Cho số phận của em.

1910

TÔI LÀ NGƯỜI CHĂN BÒ

Tôi là người chăn bò

Lều giữa đồng vỗ sóng

Sóng khắc vào núi lớn

Những nếp vân âm thanh

Mây phồng xốp bọt vàng

Cuộn tròn trên rừng vắng

Trong giấc mơ thầm lặng

Tôi nghe thông thì thào

Chiếu xanh vào ánh chiều

Phong và dương cao thấp

Nhà của tôi bát ngát

Đồng xanh, màu xanh mềm

Với tôi, đàn bò hiền

Luôn gật gù trò chuyện

Khiến cây sồi trẻ lại

Buông cành xuống dòng sông

Quên đi nỗi nhọc nhằn

Tôi ngủ trên khúc gỗ

Trong mơ, bình minh đỏ

Rước lễ bên suối trong…

1914

TRONG NHÀ

Thoảng lên mùi men chua

Từ ngạch cửa – nơi để thùng cơvat

Những con gián đang chui vào khe nứt

Nơi bếp lò nhẵn trơn

Trên giàn kia bồ hóng đậu rung rinh

Thả xuống bếp lòng thòng như sợi chỉ

Còn trên ghế sau vò đựng muối

Vỏ trứng gà lăn lóc bao nhiêu

Mẹ như không bao giờ nghỉ ngơi

Dáng lưng còm đi lại

Con mèo già rón rén quanh chỗ để

Bình sữa tươi

Trên càng chiếc xe cày

Những gà mái liên hồi cục tác

Và ngoài sân, bao con gà cộc

Đang gáy lên bài hát ban trưa

Nơi góc nhà

Bên kia cửa sổ

Nhút nhát mấy chó con

Bò vào những chiếc vòng cổ ngựa…

1914

_____

Cơvat: nước giải khát.
Gà cộc: gà trống.

BÀI HÁT VỀ CON CHÓ

Sáng, trong đống mì đen

Trên bao bì rách tã

Con chó mẹ đã đẻ

Bảy con chó màu hung

Nó âu yếm bầy con

Liếm từng làn lông mượt

Dưới bụng, dòng sữa tuyết

Chảy đến tận chiều hôm

Và khi gà lên chuồng

Lão chủ nhà cau có

Bỏ bảy con chó nhỏ

Vào bao tải, mang đi…

Chó mẹ đuổi theo sau

Băng qua từng đống tuyết

Rồi đứng bên vũng nước

Run rẩy với bóng mình

Khi liếm mồ hôi hông

Nó bất ngờ bắt gặp

Trên mái nhà, trăng mọc

Giống như một chó con

Nó nhìn vào khoảnh xanh

Âm thầm và buồn bã

Đến lúc mảnh trăng nhỏ

Lặn sau đồi xa xa…

Chó mẹ vẫn đứng kia

Buồn như vừa biết được:

Thức ăn ai ném cợt

Là một hòn đá con

Đôi mắt nó bỗng lăn

Những sao vàng xuống tuyết.

1915

THƯ GỬI MẸ

Mẹ ơi, mẹ có còn không?

Con xin chào mẹ – lời con cuối trời

Nhà ta mái cũ xa xôi

Ánh chiều lặng lẽ không lời tuôn qua.

Người ta bảo mẹ hằng lo

Thầm buồn khi đứa con xa không về

Quãng đường vắng mẹ thường đi

Vai choàng chiếc áo thôn quê bông sờn

Mẹ nhìn trong buổi hoàng hôn

Thoáng như gặp một tin buồn xa xăm:

Trong quán rượu, một dao găm

Đã xuyên qua trái tim hồng của con?…

Mẹ ơi, xin mẹ đừng tin

Những lời ác độc rủa nguyền gió bay

Con đâu phải kẻ lưu đày

Chết không gặp mẹ dãi bày tâm tư!

Như xưa… con vẫn như xưa

Yếu mềm. Chỉ một ước mơ không nhoà:

Nỗi buồn, đau khổ chóng qua

Để con về lại căn nhà tuổi thơ.

Con về, cành nhú chồi tơ

Khi vườn tuyết trắng ngây thơ xuân về

Mẹ đừng đánh thức con, nghe

Như ngày xưa – tám năm đi qua rồi.

Những gì đã tắt, mẹ ơi

Đừng khơi dậy nữa – những lời gió bay

Đời con sớm chịu đắng cay

Nhọc nhằn thử thách dạn dày từ lâu

Cũng đừng dạy nữa nguyện cầu

Mẹ ơi, có ích gì đâu – qua rồi!

Chỉ còn có mẹ ngời ngời

Cho con ánh sáng không lời thân yêu.

Quên đi lo lắng bao điều

Đừng buồn, đừng trách con nhiều, mẹ nghe

Ngóng con… thôi mẹ đừng đi

Vai choàng chiếc áo thôn quê bông sờn…

1924

NHÀ THƠ

Tặng bạn thân Grisa

Ai đã giết nhà thơ yêu mến ấy?

- Kẻ thù!

Và đau thương có thật của ai kia?

- Người mẹ!

Ai đã yêu người như thể những anh em

Và cả quyết dám khổ đau vì họ?

- Nhà thơ!

Nhà thơ đã tự do làm tất cả

Mà bao nhiêu người khác chẳng thể làm…

Ai đã giết nhà thơ yêu mến ấy?

Và đau thương có thật của ai kia?

1912

TÔI TIN HẠNH PHÚC HÃY CÒN

Ôi, tôi tin, tôi tin hạnh phúc hãy còn

Và kia, mặt trời không tắt

Hoàng hôn như một quyển Kinh thánh đỏ

Đang cầu nguyện những tin lành

Ôi, tôi tin, tôi tin hạnh phúc hãy còn.

Hãy rung lên đi, rung lên đi nước Nga tuyệt diệu

Hãy hồi hộp đi ơi ngọn gió thân quen

Hạnh phúc cho những người khi nhìn thấy

Niềm vui trong nỗi buồn chăn bò của mình.

Hãy rung lên đi, rung lên đi nước Nga tuyệt diệu.

Tôi yêu sao, tôi yêu sao tiếng rì rào của dòng nước mạnh

Và trên sóng hào quang của sao

Những khổ đau đang ước vọng

Những người dân đang ước vọng

Tôi yêu sao, tôi yêu sao tiếng rì rào của dòng nước mạnh.

1917-1918

TÔI ĐI RA BÃI CỎ

Đêm không ngủ đêm không ngủ

Tôi đi ra bãi cỏ ven sông

Tia chớp trời loé lên nhảy múa

Trong lung linh bọt nước cuộn vòng

Trên gò đất cây bạch dương cây bạch dương

Trong trăng sáng lên như thanh bạc

Ra đi hỡi trái tim nhỏ của tôi

Nghe bài hát người chơi đàn guxli, nghe bài hát…

Tôi say đắm trong tuyệt vời vẻ đẹp

Của người con gái dưới trăng đêm

Tôi sẽ nhảy theo đàn guxli ấy

Và sẽ xé tan chiếc khăn cưới của em!

Tôi sẽ đưa em vào tháp gỗ tối đen

Vào khu rừng xanh vào nơi xa vắng

Những sười núi tôi sẽ mang em đến

Bình minh cây anh-túc mỉm cười…

1911

NGHE KHÔNG EM – XE TRƯỢT TUYẾT ĐANG PHI

Nghe không em – xe trượt tuyết đang phi – nghe không em?

Tuyệt diệu làm sao cùng người yêu biến vào cánh đồng êm!

Một ngọn gió vui thẹn thùng e ấp

Lăn trên đồng trần tiếng chuông lục lạc

Ối, xe trượt tuyết, xe trượt tuyết – con ngựa hung nhạt của tôi

Không phải người say rượu đâu – ở xa kia cây phong đang múa đó thôi!

Chúng tôi đến và hỏi rằng: Làm sao thế, cây phong?

Rồi cùng nhảy với nhau – ba người – trên tuyết trắng như bông…

1925

SA-GA-NÊ, EM CỦA ANH

Sa-ga-nê, em của anh, Sa-ga-nê

Đến với em, anh đi từ phương Bắc

Anh sẽ kể em nghe những cánh đồng lúa mạch

Trong ánh trăng sóng lúa gợn tràn trề

Sa-ga-nê, em của anh, Sa-ga-nê

Đến với em anh đi từ phương Bắc

Phải chăng trăng nơi đó sáng gấp trăm lần

Dẫu có đẹp bao nhiêu, thành Si-rát

Cũng kém xanh mênh mông xứ Ria-dan

Đến với em anh đi từ phương Bắc.

Anh sẽ kể em nghe những cánh đồng lúa mạch

Sóng lúa cho anh mái tóc này

Nếu em thích, trong tay em cuốn chặt

Anh không hề cảm thấy chút mờ đau

Anh sẽ kể em nghe những cánh đồng lúa mạch.

Trong ánh trăng sóng lúa gợn tràn trề

Như mái tóc anh xoăn, em hãy đoán

Em thân yêu, hãy cười đùa thật nhộn

Chỉ xin đừng thức trí nhớ anh xưa

Trong ánh trăng sóng lúa gợn tràn trề.

Sa-ga-nê, em của anh, Sa-ga-nê

Ở phương Bắc cũng có người con gái

Trông rất giống em – chẳng khác gì

Cũng có thể đang nghĩ về anh đó

Sa-ga-nê, em của anh, Sa-ga-nê.

1924

EM KỂ RẰNG…

Em kể rằng, chỉ có thần Sa-đi

Mới hôn lên ngực

Hãy gượm em ơi, lạy Chúa

Rồi một lúc nào anh học được vậy thôi.

Em kể rằng, ở Kô-ran người ta thường nói:

Phải rửa hận với giặc thù

Còn anh ở Ria-dan, từ nơi này anh hiểu:

Phải viết nhanh cho em những dòng chữ thật thà.

Em hát rằng: “Sau sông Ê-pơ-rát

Có những đoá hoa hồng đẹp hơn Nữ thần đã chết”

Nếu như anh – người giàu có trên đời

Anh sẽ đặt một điệp khúc khác hơn, tuyệt vời.

Anh sẽ hái những đoá hoa hồng ấy

Bởi một niềm ưu ái của lòng anh

Để trên khắp thế gian

Không gì hơn Sa-ga-nê yêu dấu.

Xin đừng làm khổ anh bằng những lời chỉ giáo

Vì chính anh chẳng chỉ giáo một lời

Bởi sinh ra là một thi sĩ

Anh sẽ hôn như thi sĩ mà thôi.
19.XII.1924

ĐẤT NƯỚC MÀU XANH VÀ VUI LÀM SAO

Đất nước màu xanh. Và vui làm sao

Tâm hồn tôi dành cả cho bài hát

Gió từ biển ơi, hãy thổi và quạt mát

Có nghe không chim sẻ gọi hoa hồng?

Có nghe không hoa hang đang gục xuống

Đang rữa tan. Bài hát vẫn vang lên

Gió từ biển ơi, hãy thổi và quạt mát

Có nghe không chim sẻ gọi hoa hồng?

Tôi – đứa trẻ, đó là điều dễ hiểu

Còn nhà thơ, nào có phải tôi không?

Gió từ biển ơi, hãy thổi và quạt mát

Có nghe không chim sẻ gọi hoa hồng?

Ghe-li-a thân mến, đừng buồn

Nhiều hoa hồng trên con đường đã nở

Nhiều hoa hồng đã gục và đã rữa

Nhưng có một hoa vẫn nở cười…
Cười cùng nhau – anh và tôi

Bởi những vùng quê yêu tha thiết

Gió từ biển ơi, hãy thổi và quạt mát

Có nghe không chim sẻ gọi hoa hồng?

Đất nước màu xanh. Và vui làm sao

Tâm hồn tôi bán cả cho bài hát

Như vì Ghe-li-a trong bóng những cành cây

Con chim sẻ ôm hoa hồng thơm ngát…

1925

BÊN CỬA SỔ MỘT ÁNH TRĂNG

Bên cửa sổ một ánh trăng. Bên cửa sổ một ngọn gió

Thổi vào cây bạch dương – cây nến cây bạc của tôi.

Tiếng khóc cô đơn xe trượt tuyết xa xôi

Sao mà thân thuộc, sao mà xa lạ.

Bài hát âm ỉ: khóc và cười

Ở đâu rồi cây đa của tôi – cây đa thế kỷ

Ở đâu rồi một ngày xưa trong buổi lễ

Tôi cùng người yêu, xe trượt tuyết đổ kềnh?

Và bây giờ đối với người yêu, tôi chẳng là gì

Tôi khóc, tôi cười trong bài hát không hề thân thuộc.

1925

KHÓC RÊN GÌ GIÓ TUYẾT

Khóc rên gì gió tuyết ơi

Mà nghe như tiếng đàn người Xư-gan

Nụ cười em giá băng tràn

Cái nhìn xanh sắc như làn nước trong

Sợ chi một chuyện đau lòng

Tôi cần nhiều, cũng chẳng mong chi nhiều!

Khác nhau như sớm với chiều

Tôi từng trải, với em nhiều ngây thơ

Ấm êm cho những trai tơ

Còn tôi chỉ có những giờ đã qua

Còn tôi, chỉ có ngày xưa

Một đêm gió tuyết xa mờ… đắng cay…

Tôi không phải kẻ mê say

Bằng âu yếm lúc cầm tay sát kề

Với tôi, chẳng có nghĩa gì

Tiếng đàn rên xiết vùng quê tuyết gào

Mà nụ cười – lạ lùng sao

Cứ như bão tuyết xoáy vào tim tôi!…

1925

CON CON CHÓ

Lại hiện về những năm tháng xa xăm

Như bãi cỏ xạc xào hoa cúc dại

Chợt hình dung về một con chó cái

Đã một thời là bạn của tôi.

Tuổi trẻ tôi nay đã tắt rồi

Như cây phong mục tàn vì mưa nắng

Tôi nhớ lại một cô áo trắng

Mà con chó kia là người đưa thư

Chẳng phải ai cũng có một người thân

Nhưng với tôi, cô gái ấy là bài ca tuổi trẻ

Những bức thư tôi buộc nơi cổ chó

Cô ta chưa một lần cầm.

Cô ta chưa hề đọc một lần

Nét chữ tôi cô hoàn toàn xa lạ

Nàng cứ đứng trầm tư lặng lẽ

Bên lùm cây ven mặt nước thu vàng

Tôi khổ đau… Tôi mong đợi hồi âm…

Không chờ được, tôi ra đi… Và thế

Tháng năm qua, tôi trở thành thi sĩ

Lại về đây, bên khung cửa quen thân.

Con chó xưa đã chết từ lâu

Ra đón tôi là một con chó khác

Con nó đây, màu lông quen đã nhạt

Cất tiếng sủa chào sang sảng, non tơ.

Người mẹ nòi! Nó giống mẹ làm sao!

Để lòng tôi chỉ nghe buồn tê tái

Với nỗi đau này tôi dường như trẻ lại

Tôi lại ngồi viết những bức thư

Tôi bồi hồi nghe lại khúc ca xưa

Nhưng đừng sủa, chó ơi, đừng sủa nữa

Mày có muốn tao hôn mày không hả chó

Vì tháng năm vừa thức dậy trong hồn?

Tôi ôm hôn, tôi ghì nó vào lòng

Và dẫn nó vào nhà như người bạn…

Phải, tôi đã tong say một cô áo trắng

Nhưng bây giờ tôi lại yêu một cô áo xanh (1)

1924

(1) ANH NGỌC dịch

TÔI NHỚ

Nhớ luôn, em hỡi, nhớ hoài

Mái đầu em tựa, tóc ngời hào quang

Xa em giờ phải lỡ làng,

Không vui cũng chẳng dễ dàng đâu em

Anh còn nhớ mãi những đêm

Lào xào trong lá êm đềm bạch dương

Dẫu ngày khi ấy ngắn hơn,

Choàng đôi ta, ánh trăng xuân lại dài

Nhớ xưa em nói cùng tôi

“Những năm của tuổi xuân rồi sẽ qua,

Và, anh yêu quý, dần dà

Bên người yêu khác anh đà quên em”.

Cành hoa nay nở hoa thêm

Nhắc cùng anh mối tình duyên khi nào

Cánh hoa em rắc hôm nao

Lên làn sóng tóc em – sao dịu dàng!

Trái tim ngừng đập sẵn sàng

Yêu người yêu khác, sầu mang bên lòng

Ôi thiên tình sử nghẹn ngùng!

Ngồi bên ai vẫn mơ màng nhớ em. (1)

1925

(1) XUÂN DIỆU dịch

MỘT CHIỀU XANH. MỘT CHIỀU TRĂNG

Một chiều xanh. Một chiều xanh

Một thuở xa xưa anh trẻ và anh đẹp

Không giữ được. Không quay lại được

Tất cả đã bay đi… bay xa… bay qua…

Cho đến lúc tim ngừng đập và mắt sầm khép lại

Ôi hạnh phúc xanh! Những đêm trăng!..

1925

LÁ THƯ GỬI NGƯỜI ĐÀN BÀ

Nhớ chăng, người có nhớ chăng

Lặng im tôi đứng tựa lưng bên tường

Lời người gay gắt trong phòng

Ném vào tôi, chẳng xót thương chút nào?

Bảo rằng: đến lúc biệt nhau

Đời người cực nhục âu sầu vì tôi

Bảo rằng? Đã đến lúc rồi

Tự người lo liệu cuộc đời mình thôi

Mặc cho số phận của tôi

Cứ lăn xuống dốc… Hỡi người yêu thương.

Hỡi người, có hiểu hay không

Đã bao giờ thấy tận lòng yêu tôi?

Ở trong hỗn độn lũ người

Tôi như con ngựa đường dài ruổi rong

Hỡi người, có hiểu hay không

Tôi phi ngơ ngác bão giông dòng đời?…

Kề nhau chẳng rõ mặt người

Xa nhau mới thấy rạng ngời chân dung

Là khi sóng dữ biển tung

Con tàu số phận bão bùng, ai hay…

Con tàu trái đất quay quay

Bỗng người cầm lái bỏ tay lái rồi

Vinh quang tìm chốn sao trời

Để con tàu giữa bời bời cuồng phong

Chúng ta còn đứng trên boong

Ai chửi rủa với ai còn oẹ nôn

Và ai khoẻ mạnh kiên cường

Hiên ngang trụ giữa trùng dương sóng gào

Tôi chui tọt xuống hầm tàu

Cúi trên miệng cốc với màu rượu Nga

Để dồi dịu bớt xót xa

Trong men rượu – thứ rượu Nga tuyệt vời

Hỡi người yêu của tôi ơi

Mắt buồn day dứt nhìn tôi tủi hờn

Trước bao gây gổ om xòm

Trước bao câu chuyện kinh hồn về tôi

Nhưng người nào hiểu giữa đời

Tôi buồn ngơ ngác biết rồi về đâu?…



Năm qua mau tháng qua mau

Tôi không còn trẻ – nhuốm màu thời gian

Chẳng như xưa nữa tâm hồn

Nghĩ suy, xúc động chẳng còn như xưa

Tôi nâng chén rượu tung hô

Mừng vui, chợt nhớ âu lo mắt người…

Hỡi người yêu của tôi ơi

Giờ đây tôi muốn tìm người, báo tin:

Tôi không rơi xuống biển đen

Bởi tôi còn một niềm tin trên bờ

Giờ trên đất nước Tự Do

Tôi là người bạn đường xa trọn đời

Bây giờ tôi khác xưa rồi

Chẳng làm người khổ như hồi xa xưa

Dưới cờ sáng tựa bông hoa

Tôi đi, dù đến trời xa vô cùng…

Hãy cho qua những lỗi lầm

Người ơi, tôi biết chắc rằng, giờ đây

Người đang sống với tháng ngày

Bên chồng mực thước, dạn dày, thông minh

Những niềm mơ ước chúng mình

Với người, hẳn đã trở thành lạ xa

Và tôi, tôi của bây giờ

Với người, người chẳng cần gì nữa đâu!…

Sao đời dắt dẫn thế nào

Xin người cứ sống ngọt ngào vậy thôi

Và tôi xin gửi tới người

Lời chào của kẻ suốt đời không quên

Với bao thương nhớ kề bên

Lời chào của một người quen của người

1924 – 1925

ĐỒNG NỘI TUYẾT,
MỘT MẶT TRĂNG MÀU TRẮNG

Đồng nội tuyết, một mặt trăng màu trắng

Như vải liệm phủ lên một phía cuộc đời

Cây khoác áo tang khóc trong rừng trắng lạnh

Ai đã chết ở đây? Ai chết? Hay lại chính là tôi?…

1925

TÔI CHẲNG TIẾC, CHẲNG KÊU VAN, CHẲNG KHÓC

Tôi chẳng tiếc, chẳng kêu van, chẳng khóc

Tất cả sẽ tan đi như làn khói mong manh từ cây táo trắng kia

Tất cả sẽ héo tàn, thời vàng ngọc sẽ qua

Tôi cũng chẳng còn thêm tuổi trẻ…

Như vậy đấy, tim tôi giờ băng giá

Đã dâng đầy. Đâu sôi động như xưa

Và xứ sở của bạch dương trải lụa

Những chân trần trượt ngã, chẳng bị lừa.

Hồn lang thang mỗi ngày một ít đi

Những tiếng xôn xao, những lời lửa cháy

Ôi mất mát của tôi – những gì tươi tắn ấy

Mắt ngang tàng và thác lũ tình yêu.

Giờ ước mong, tôi dè dặt hơn nhiều

Cuộc sống của tôi ư? Tôi có mơ thấy nó

Trên ngựa hồng phi qua miền hoa nở

Đầy âm thanh một mai sớm mùa xuân.

Rồi tất cả chúng ta, tất cả chúng ta nơi trần thế

Như lá phong lặng lẽ trút sắc đồng

Thôi, thế này, với nó hãy cầu mong:

Rằng… nó đến… ánh lên… rồi tan biến…

1922

Ở ĐÂU NHÀ CỦA BỐ TÔI

Ở đâu nhà của bố tôi

Tấm lưng còm sém nằng trời tháng, năm

Cát vàng chưa một dấu chân

Trước sân như thể tấm khăn của người

Ở đâu nhà của bố tôi?…

Người chăn bò hát ngoài sông

Đàn bò gặm cỏ trên đồng bao la

Bỗng dưng mặt nước sáng lòa

Ba ngôi sao nhỏ trời xa bềnh bồng

Người chăn bò hát ngoài sông…

Cối xay gió – cánh của mình

Thời gian quay miết rung rinh sau làng

Trăng như quả lắc bằng vàng

Nhịp thời gian đổ mơ màng mưa êm

Cối xay gió – cánh của mình…

Cơn mưa ngàn vạn mũi tên

Xuyên mây bay xuống trước thềm nhà tôi

Tấm khăn nhàu nát mất rồi

Cát vàng như đã bao người giẫm lên

Cơn mưa ngàn vạn mũi tên…

1917 –1918

VỚI PUSKIN

Sao nhớ quá một tài năng kỳ diệu

Của một người mang số phận nước Nga

Tôi đứng trên đại lộ Tơ-ve-rơ

Và tôi nói với chính mình đang đứng

Trước một người tóc vàng, gần như trắng

Ngỡ mù sương trong thần thoại xa vời

Ôi! Alexandro! Anh là người lêu lổng

Như hôm nay tôi lêu lổng vậy thôi.

Nhưng những trò vui trìu mến ấy

Chẳng làm mờ hình ảnh của anh

Và trong đồng của sự vinh quang tôi luyện

Đầu anh còn kiêu hãnh rung lên

Còn tôi vẫn đứng đây như trong cuộc lễ mừng

Và trả lời anh: Tôi có thể chết

Tôi có thể chết ngay bây giờ, từ hạnh phúc

Giống như số phận của anh kia.

Nhưng tôi là một người trong xua đuổi

Tôi phải còn, và phải hát không ngừng

Để những bài hát của tôi về đồng nội

Mãi rung lên như tiếng ngân đồng!…

1924
http://hoingovanchuong.wordpress.com/d%E1%BB%8Bch-thu%E1%BA%ADt/
Đọc thêm!

Văn chương, hay là một cách ứng xử văn hóa

Trần Mạnh Hảo


Đọc xong tập truyện ngắn"Man Nương" của Phạm Thị Hoài, chúng tôi bàng hoàng, thậm chí kinh dị về nguyên nhân ra mắt của ấn phẩm này, lòng bán tín bán nghi cứ đinh ninh rằng nó được in ra bởi một nhà xuất bản của người Việt di tản bên Mỹ. Nhưng buồn thay, nó lại được in ra ở trong nước bởi nhà xuất bản Hà Nội năm 1995, có đề rõ tên người chịu trách nhiệm xuất bản là Đỗ Minh và người chịu trách nhiệm bản thảo là Hoàng Ngọc Hà thì qủa là hết sức giật mình thật.

Phạm Thị Hoài, nhà văn của đợt sóng mới được biết đến bởi cuốn tiểu thuyết mini"Thiên sứ" và một ít truyện ngắn khác. Mặc dù còn khá nhiều dấu vết của sự bắt chước và phương cách làm dáng trí thức, " Thiên Sứ" đã chiếm được cảm tình của người đọc. Chúng tôi qủa tình đã hi vọng qúa nhiều vào Phạm Thị Hoài với một lối viết cuốn theo dòng ý thức tự sự, độc thoại nội tâm khá linh hoạt, với một nhãn quan trẻ trung tuy hơi bụi, sẽ có thể làm được một cái gì kha khá cho văn học Việt Nam. Nhưng tình cảm của chúng tôi với "Thiên Sứ"- Phạm Thị Hoài hầu như đã bị thương tổn bởi "Man nương". Chúng tôi đã thất vọng khi gặp ở đây một Phạm Thị Hoài khác, một Phạm Thị Hoài không thể tưởng tượng được.



Công bằng mà nói, trong mười truyện của "Man Nương" có những truyện khá như "Tiệm may Sài Gòn","Thực đơn chủ nhật" và "Những con búp bê của bà cụ". Ở những truyện này, trên những tình huống bi kịch, phi lý, thậm chí nhớp nháp và ghê rợn, khả năng thành tâm và chừng mực của tác giả còn lay động được nỗi lòng người đọc. Đâu đó, không phải không có những đoạn, những trang văn hay, những phân tích tâm lý thú vị, những nhận xét sắc sảo và tinh quái, những biếm nhẽ đỏng đảnh và khôi hài đáo để, những triết lý ranh mãnh và sự nổi đóa con trẻ, những cảm động nhợt nhạt và dễ thương. Lối viết của Phạm Thị Hoài là lối viết tự sự học đòi kiểu trôi theo dòng ý thức và độc thoại nội tâm, lấy thước đo mù mờ cuả cái tôi để đo đạc một thế giới ẩn ức còn mù mờ hơn nữa có tên là vô thức. Bắt chước lối viết của các nhà văn của chủ nghĩa hiện sinh đã cáo chung trước những năm sáu mươi, truyện của Phạm Thị Hoài hầu như không có nhân vật, hay nói đúng hơn, nhân vật trung tâm, nhân vật chính là cái tôi, là chính tác giả. Do đó, giữa nhà văn và nhân vật hầu như không còn khoảng cách. Dù đóng vai nhà thơ trên diễn đàn hay một thày A.K. ấm ớ đi tìm chân lý, rốt ráo thái độ và phát ngôn với cuộc đời kia vẫn là của chính Phạm Thị Hoài. Nhân vật không chỉ còn là phân thân, mà chính là hóa thân của tác giả, là người lĩnh xướng và phát ngôn viên của nhà văn. Một số truyện của Phạm Thị Hoài vẫn còn ghi rõ dấu vết thô thiển của sự bắt chước như "Thực đơn ngày chủ nhật" là giọng điệu của Nguyễn Huy Thiệp, "Những con búp bê của bà cụ" và "Một anh hùng" tràn ngập chất Marquez, "Truyện thày A.K. kẻ sĩ Hà Thành" như sao chép lại cách viết của Kafka và của Cesvantes trong Don Quichotté... "Man nương" như một hồi ức, một nhật ký tâm hồn, một phản ứng xã hội, một phép ứng xử của tác giả với thế giới. Vậy, chúng ta cùng nhau khảo sát xem cái thế giới Phạm Thị Hoài mang đến cho chúng ta trong "Man nương" có còn là thế giới của "Thiên Sứ"? Vâng, văn học - hành động hướng thiện của con người, có thể ra đi từ thế giới của qủy sứ nhưng là để trở về thế giới thiên sứ của con người chứ không phải ngược lại. Nên nhớ rằng, theo Kinh Thánh, Lucife trước khi biến thành qủy sứ vì phạm thượng và kiêu ngạo, đã từng là một thiên sứ, một thiên sứ “thương lắm cơ”(!)



1) " MỘT THẾ GIỚI... XẤU GHÊ GỚM"



Trong truyện ngắn "Nền cộng hòa của các nhà thơ", một truyện ngắn thể hiện thái độ bỡn cợt, khinh thị, nhạo báng nền văn học của chúng ta một cách khá ác ý, trang 137, tác giả viết:"Khi cái đẹp được hiểu một cách biện chứng nhất, nó sẽ đương nhiên thống trị thế giới hiện thời, một thế giới mà trong đó thú thực nhìn vào đâu ta cũng thấy xấu ghê gớm". Có thể nói, kết luận này được coi là quan niệm thẩm mỹ của Phạm Thị Hoài, là tư tưởng chủ đạo của "Man Nương". "Cái đẹp được hiểu một cách biện chứng nhất" của tác giả qủa là một cái đẹp mù mờ, nhưng là một cái đẹp chưa có, chưa đến, còn nằm trong khát vọng. Bởi theo tác giả, nó - tức cái đẹp hư vô kia " sẽ đương nhiên thống trị thế giới hiện thời", nghĩa là nó còn ở thì tương lai. Còn với cái thế giới đang có, đang tồn tại, một thế giới theo kiểu Descartes, tức nhiên là thế giới thu nhỏ "Man nương", thật là thê thảm vì " nhìn vào đâu ta cũng thấy xấu ghê gớm" (!) Chúng ta hẳn còn nhớ một danh ngôn gần như là một câu kinh thánh của Dostoievski về văn học nghệ thuật:" Cái đẹp sẽ cứu chuộc thế giới". Đề tài viết của thiên tài này hầu như toàn về cái ác, cái xấu nhưng là để cứu vớt và tôn vinh cái thiện, cái mỹ. Dù ngay cả trong địa ngục của qủy sứ nơi "Anh em nhà Karamazov", "Tội ác và trừng phạt" hoặc" Lũ người qủy ám"..., bao giờ Dostoievski cũng ráng sức lượm lặt, tìm kiếm, hi vọng, quằn quại trong nỗi đợi chờ thiên sứ của nhân tính, của cái đẹp hằng sống nơi con người xuất hiện như ngôi sao thành Betlem trong đêm đông xưa. Ngay cả nhà văn Áo gốc Tiệp khắc là Kafka từng vật vã, trôi dạt, ẩm mốc trong một thế giới đã bị rệp hóa, gián hóa, sâu bọ hóa cũng là để truy tìm cái đẹp của thiên sứ trong nhân tính, dù là cuộc đi tìm có lúc hầu như tuyệt vọng, nhưng là thứ tuyệt vọng cao cả, thứ tuyệt vọng của khát vọng đạo đức cùng đường. Nguyễn Du đã bị xã hội đẩy vào thế giới "xấu ghê gớm" là nhà thổ trần gian cùng với nàng Kiều. Nhưng lạ thay, ở nơi cặn bã của thế giới, thi hào và nàng thơ của mình lại chứa chan lòng thương yêu con người, tìm lại được cái đẹp thiên sứ của trinh bạch ngay trước tượng thần Bạch Mi. Văn học, trên cánh đồng Araphát ngày phán xét chung của lương tri và nhân tính, bao giờ cũng như ngôi sao mọc bên phải loài người. Văn học, hay là một phương cách hy vọng vào một thế giới tốt đẹp hơn, nhân ái và bao dung hơn. Nơi, ngay trong lòng thế giới bị qủy ám đi chăng nữa, nhà văn cũng phải chỉ cho con người biết cách phát hiện là thiên sứ Gabriél đến báo tin mừng về sự cứu chuộc của cái đẹp đã xuất hiện. Chỉ có Phạm Thị Hoài trong "Man nương", như tuyên bố trên của mình, đã đánh mất khả năng thiên sứ bằng việc không còn biết phát hiện ra cái đẹp của thế giới. Đánh mất khả năng khám phá ra cái tốt đẹp của thế giới, cũng có nghĩa Phạm Thị Hoài đã đánh mất thuộc tính quan trọng nhất của văn học vậy.



"Một thế giới mà trong đó thú thực nhìn vào đâu ta cũng thấy xấu ghê gớm". "Man nương" có thể là một minh chứng cho nhận định mang tính thẩm mỹ độc nhất vô nhị trên của tác giả. Phạm Thị Hoài qủa có sở trường về việc dựng lên một thế giới bỉ ổi, lưu manh, dâm đãng, đểu cáng và hèn hạ. Con người dưới con mắt của Phạm Thị Hoài chỉ còn là con vật, một con ruồi libido "bu quanh" một không gian gớm ghiếc:"Cứ thử quan sát họ, dù ở một nhà vệ sinh thu tiền, hay bu quanh một góc tiểu tiện khoan khoái ấm cúng giữa phố... đến nhà nào cũng thấy một con đực, và kè kè bên nó một con cái, không rõ có phải của nhau hay không..."(19) "Tôi có đủ nghề nhưng chẳng thạo nghề nào ngoài ăn ngủ với đàn bà và lừa mị vợ"(111). Nhà văn trước hết phải là tông đồ của nhân tính, nghĩa là phải biết thương yêu đồng loại, nhưng Phạm Thị Hoài trong tác phẩm này, hầu như chỉ nhằm khinh rẻ, tởm lợm con người, cho họ là khỉ tuốt:"Tôi nghĩ ngợi về sự cẩu thả không thể tin được của con người trong cái cách họ im ỉm đóng cửa cãi lộn hoặc an ủi nhau ...họ vén quần đái giữa phố một cách rất khiêu dâm, họ chồm hổm ở khắp mọi nơi như những con khỉ vui sống..."(11) Hãy xem tác giả xỉ nhục và thô bỉ hóa giấc mơ của con người còn tồi tệ hơn cả con vật ghê tởm nhất:"Anh mỗi ngày tắm một lần mơ một lần. Mơ được mẩu nào gói ngay vào số đề quẳng ra cửa sổ như gói cứt. Anh đừng có đánh rắm và chịu khó tắt thở là dí mũi vào Thiên Thai, vú chúng nó như bánh dày đùi như giò lụa"(42). Hãy xem tác giả dòi bọ hóa con người trong sự "nhung nhúc"của phố phường:"Đám đông đang nôn nóng thành đạt nhung nhúc trên các đường phố"(158). Con người dưới mắt Phạm Thị Hoài là một loài vật vô ý thức, thô tục, bẩn thỉu và man rợ:"Mẹ tôi lựa lời can thì dỗi, xuống bếp tè vào nồi nước rau"(67). "Ngồi chồm hỗm trên ghế như đi cầu tiêu và xỉa răng như quét chợ, những câu chửi đời phun ra giữa hai lần và soàn soạt thối không chịu được, nhưng mẹ bảo, khách đã là thượng đế thì thế chứ bĩnh ra đây mình cũng phải nuốt"(69). Các nhân vật của Phạm Thị Hoài ít khi nói được một câu tử tế, toàn là giọng bặm trợn, thô bỉ, đầu đường xó chợ:"Ngoài miệng thì chị chị em em, tấm bánh thì chia, tấm chồng giấu như mèo giấu cứt"(48)."Chiều cái con tiều"(44). "Anh xin em anh đéo biết nịnh đầm"(39). "Mẹ kiếp, chỉ thiếu cái mồ hôi hố xí hai ngăn nhà anh là toàn diện"(48)."Một ngày hăm bốn tiếng ăn ngủ đụ ị"(42). "Mũi như ống bô xe máy"(43). "Anh vào ra đếch xin phép, mẹ kiếp như việc xã hội"(46). "Mồ hôi anh như mùi hố xí hai ngăn"(37). "Đéo chơi cái đoạn đi giày da Ý"(42)...Chừng như Phạm Thị Hoài rất khoái trá nhìn vào một thế giới"ruồi và cứt ruồi bám như đậu đen vừng đen"(70), vượt qua cả giới hạn của chủ nghĩa tự nhiên để hóa thành chủ nghĩa dung tục, đã tìm mọi cách thối rữa hóa linh hồn và thể xác đồng loại trong cái nhìn bệnh hoạn, nhẫn tâm, sung sướng nhìn đồng loại bị hủy hoại của thày A.K., một phát ngôn viên của tác giả:"Người ta suy dinh dưỡng và toét mắt, ngứa ngáy và đau bụng ỉa chảy, lên sởi, động kinh, băng huyết và uốn ván, tê thấp đậu mùa, trúng gió, cấm khẩu, giun sán, còi xương, ngớ ngẩn, đau ruột thừa, lên nẹo, cả tin, bướu cổ,ung thư, u mê, sâu răng, đi rắt, ho lao, phù thũng, quáng gà, tuyệt tự, thối rữa linh hồn, rụng tóc, mê sảng, bội thực, thối mồm, tảo tinh, táo bón, biếng ăn, sốt rét, thiếu máu, nói nhịu, cười vô cớ, quai bị, tim la, thoái hóa cột sống, sợ ma, chảy máu não, cuồng dâm, sỏi thận, chán đời, bạo phổi, rối loạn kinh nguyệt, ra mồ hôi trộm, teo cơ giả phì đại, ngất, hủi, liệt, mù, câm...(192). Qủa "là một thế giới xâu ghê gớm". "Man Nương" đã thành câu lạc bộ bệnh hoạn của chứng động kinh phi nhân tính, một bệnh viện khổng lồ của con người, nơi chỉ toàn bệnh nhân mà không có thày thuốc. Đồng loại tật nguyền toàn phần kia dưới đôi mắt tàn nhẫn của nhà văn, ngay một người mẹ cũng rất ác với chính con mình:"Người mẹ trả thù cho việc mang thai tôi rất bất đắc dĩ bằng cách cứ tiện tay thì bổ guốc cao gót xuống đầu tôi"(102). Còn người cha thì vô hồn:"Bố thì giống máy hút bụi chưa có trên thị trường"(77). Do vậy, cái nhân vật - xưng tôi - tác giả, đã hơn một lần giận dữ và kinh tởm đồng loại:"...hôi rình ở miệng và nách"..."nhổ nước miếng mấy trăm lần. Từng cái lông chân của thiên hạ đều khiến tôi giận dữ và kinh tởm"(10,11). Một cái nhìn đen tối về thế giới, một thái độ khinh rẻ và căm ghét con người đến như vậy của Phạm Thị Hoài, phỏng có phải là một thế giới quan bệnh hoạn và một quan niệm thẩm mỹ chối bỏ nhân tính chăng? Với một thế giới đen hơn mực Tàu, không một mẩu đom đóm của lòng trắc ẩn, không một ánh lân tinh của hi vọng như thế, khiến ta có thể gọi "Man nương"là một tác phẩm văn học được chăng? Bởi, nói như Joan Giô-Nô: " nhà văn là giáo sư của niềm hy vọng", chứ đâu phải là trò chơi bịt mắt bắt dê của cái xấu xa và sự tuyệt vọng trong ao tù của con- người- thú- tính? Rất tiếc một thái độ nhìn đời đen tối và báng bổ như trên, chừng như đang manh nha thành một khuynh hướng trong văn học Việt Nam?



2) MỘT CÁI NHÌN KHÔNG PHẢI VỚI NGƯỜI VIỆT NAM



Nhân vật xưng "tôi-tác giả" có lúc xưng là em, xưng là nhà thơ, xưng là thày A.K. Khốttabít hâm hâm kia trong "Man nương", ngoài khả năng khinh rẻ con người nói chung ra, nó còn có một khả năng khác cũng gần như vô tận là thái độ coi thường, thậm chí mạ lỵ người Việt Nam chúng ta nữa. Than ôi, thử tìm dưới gầm trời này xem có một nhà văn, một trí thức chân chính nào lại đi khinh rẻ dân tộc mình, tổ tiên, thậm chí lăng mạ cả tín ngưỡng của ông bà mình như nhân vật xưng tôi trong tác phẩm này của Phạm Thị Hoài hay không? Hãy nghe tác giả nói về đất nước của mình:"Ông ta là một công dân của một đất nước ở vào thời buổi không có gì đáng sĩ diện hết"(30). Những dòng này, tác giả viết vào tháng 12 năm 1990, nghĩa là vào thời hiện nay, có thật đất nước chúng ta là một đất nước "không có gì đáng sĩ diện" như Phạm Thị Hoài đã viết? Trong lịch sử bốn nghìn năm của mình, đất nước chúng ta bao giờ cũng là một đất nước không ngại bất cứ sự hi sinh to lớn nào để giữ sĩ diện quốc gia, giữ sĩ diện nòi giống bằng hàng chục cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Chúng ta sẽ bị lăng nhục ghê gớm khi một buổi sáng nào đó, một kẻ nào đó chợt chỉ vào mặt ta mà chửi rằng ngươi là một kẻ không có sĩ diện. Nhưng chúng ta chả lẽ sẽ không bị lăng nhục hơn khi có ai đó nhân danh bất kỳ thứ qủy quái nào, dám bảo đất nước Việt Nam đau thương và anh hùng của chúng ta là một đất nước " ở thời buổi không có gì đáng sĩ diện hết"(!) Thảo nào, bằng lối tự sự của dòng độc thoại nội tâm, Phạm Thị Hoài ở trang 112 trong truyện "Một anh hùng" đã " nguyền rủa số phận là người Việt Nam của mình" bằng cách viết:" Cũng như mọi người Việt Nam khác, hễ có dịp là tôi nguyền rủa số phận là người Việt Nam của mình, và hễ được hỏi vậy muốn là người gì tôi sẽ nhất định thở dài mà xin làm người Việt". Kinh Thánh có kể chuyện thánh Jop vì bị Chúa thử thách cho tan gia bại sản, cô độc, đói nghèo, cùi hủi, đến mức không chịu đựng được đã phải nguyền rủa ngày sinh của mình, nguyền rủa số phận mình, chứ tuyệt nhiên không dám nguyền rủa số phận là dân Do Thái dòng dõi Abraham của mình. Không có một tác phẩm văn học chân chính nào không tìm cách gắn với cội nguồn dân tộc, gắn với bầu sữa của bà Mẹ Tổ Quốc đã tùng nuôi nấng mình, chỉ trừ Phạm Thị Hoài mà thôi. Khi đang tâm "nguyền rủa số phận là người Việt Nam của mình", không biết văn học của bà sinh ra để phục vụ một đất nước nào khác vậy? Do đó, chúng ta không lạ gì thái độ rẻ rúng người Việt Nam khi tác giả hàng xén hóa đồng bào mình:"Người Việt Nam chúng ta sinh ra không phải chỉ làm một việc. Mỗi chúng ta là một tài cán tạp nhạp, người sáng giá nhất thì có cái diện mạo và cử chỉ của một ông chủ hàng xén thành đạt"(111). Qủa thậm vô lý khi tác giả lên án những ai yêu nước bằng cách "lo việc nước":"Mà lo việc nước lắm lại khổ việc nước nhiều đấy thôi, chứ ích gì. Cái quốc gia này chỉ thực sự chuyển mình khi không còn bất kỳ ai lo đến nó"(111). Chừng như bất cứ biểu hiện gì " lo việc nước" đều dị ứng với tác giả:"Chúng ta không dám cầm bút ghi vào sổ cảm tưởng trong đó một người vô danh viết bằng các bức "nu" trong phòng tranh này cũng láo toét như những khẩu hiệu chính trị"(115). Vì sự nóng giận mất bình tĩnh, tác giả đả kích rồi chửi đổng cả một số tờ báo có đăng tin vụ án và cho rằng báo chí gián tiếp ăn xác chết như những con kên kên chính hiệu:"Ông ấy mặt lặng như phu mộ tải thây người đi dọc phố. Cũng đếch có thây xịn, báo Công an nước đầu, báo Tiền phong nước hai, xào đi xào lại đến báo Đại đoàn kết thì chết qua tay mấy lần. Tiên sư đời"(43). Ở trang 115, không biết với dụng ý gì, tác giả bịa ra một tòa án binh lố bịch và man rợ, diễu cợt và bôi bác khi xét xử một vụ hủ hóa" thấy da thịt một đen một trắng hổn hển lao vào ngực chính trị viên...khi cô ta rên...", bằng cách đốt hai cái quần của của đôi nam nữ xem có ngửi thấy mùi "ấy" không:"Trước tòa án quân sự ...Người ta quyết định đốt hai chiếc quần, một gabađin quân phục, một phíp đen dân sự, nhờ ngọn gió phán xét. Gần trăm con người nín thở đứng thành vòng tròn quanh giàn thiêu. Đại úy chính tị viên châm lửa. Khói quân sự và khói dân sự ngập ngừng bốc lên, chừng một gang tay chưa hề có dấu hiệu khả nghi, rồi bỗng quyện vào nhau, cuốn quýt, say đắm, được tiếng vải nổ tanh tách khích lệ, thắm thiết dìu nhau tỏa mãi vào không gian vùng quê lành mạnh. Họ vô tội trong chừng một gang tay để rồi ngay sau đó hiển nhiên sa ngã"(115).



"Man nương" đã chạm vào nơi sâu thẳm nhất là tín ngưỡng của người Việt Nam, bằng cách diễu cợt, xúc xiểm qúa tục tằn rất Phạm Thị Hoài:"Ngày xưa tín ngưỡng trộm, lòng thành nơm nớp như mót ị sợ bị bắt qủa tang bĩnh ra quần. Bây giờ đéo mót người ta cũng đến nhà bắt rặn"(44). Cái cách"mót" và "rặn" ra tín ngưỡng của Phạm Thị Hoài qủa tình đã xúc phạm, thóa mạ các vị thần linh của người Việt. Nữ văn sĩ hiện sinh chủ nghĩa đánh nốc-ao cả vua Hùng và Đức Thánh Trần Hưng Đạo, một vị là ông tổ của dân tộc, một vị là anh hùng dân tộc được nhân dân phong thánh :"Tất cả thần thánh đất Việt cùng một số vị ngoại quốc nhưng đã Việt hóa hoàn toàn: nào đức thánh Trần, nào Liễu Hạnh Tản Viên, nào sơn thần thủy quái, chúa Thượng Ngàn, nào các cô các cậu, các vua Hùng... Quan Công... pho nào cũng gồm một cái mặt đuồn đuỗn trai chẳng ra trai, gái chẳng ra gái, và một trang phục phường chèo thậm vô lý"(118). Tác giả sàm sỡ, bờm xơm, diễu cợt cả mẹ Âu Cơ:"Tôi đẻ trăm cái trứng hết nhiệm vụ làm tổ tiên"(46). Cao hứng vì cú trừng phạt tổ tiên, hạ bệ thần tượng thần linh một cách ngoạn mục, Phạm Thị Hoài không tha cả một anh hùng dân tộc khác - một nhà văn hóa vĩ đại nhất lịch sử nước nhà là Đức Nguyễn Trãi:"Đúng là tôi toàn trích Ức Trai tiên sinh...Cái văn phong lặng ngồi tẩn mẩn xót xa thương người thì ít thương ta thì nhiều trong các bài thơ thất sủng của ông có thể dạy tốt cho tôi, rằng không nên để mình bị thất sủng như thế"(111).



Hà Nội thủ đô, trái tim đất nước, đất nghìn năm văn vật, được rất nhiều văn nhân thi sĩ cổ kim ca ngợi, là niềm tự hào rất đỗi thiêng liêng của mỗi người Việt Nam. Chúng tôi vô cùng kinh ngạc vì Phạm Thị Hoài sao lại căm ghét thành phố này đến thế khi mỗi buổi sáng thức dậy, bà lại đến nỗi lỗ mãng chào nó bằng một phát trung tiện rất hiện sinh của mình:"Phải sống ở Hà Nội, phải hít thở nó đằng mũi, đằng mồm và thấy nó nghèn nghẹn nơi cổ, nó từ từ trườn vào phổi, nó máy trong bụng như thai nhi, nó chạy tê tê xuống hai bắp vế, rồi nó chào thân ái ta, hay ta chào thân ái nó bằng một phát trung tiện nghe như tiếng thở dài"(149). Xin lỗi, tiếng chào Hà Nội kiểu này của Phạm Thị Hoài hẳn là một cách để cám ơn cái thành phố đã qúa hào hiệp và lơ đãng, đến nỗi đã để nhà xuất bản cuả nó in ra tập truyện có một không hai này chăng? Vâng, một Hà Nội mà trong các trang viết của mình, Phạm Thị Hoài bao giờ cũng biết cách trả ơn nó bằng một gáo nước lạnh hắt thẳng vào mặt:"Hà Nội còn mình tôi với anh trôi trên áo hàng thùng. Một mình tôi với anh. Nhìn xung quanh là cánh đồng chết. Nhìn nhau chán như bà già gặp kẻ cắp"(46). "Bắt cóc nàng mang về Hà Nội thôi, ở đó đầy rẫy những tiên nữ thôn quê thoái hóa biến chất, giọng thì cứ bèn bẹt ra, mông đánh vù vù, hở ra câu nào vô duyên câu ấy"(182).



3) DUNG TỤC CÓ PHẢI LÀ CON ĐƯỜNG CỦA VĂN HỌC?



Viết "Man nương", chừng như Phạm Thị Hoài muốn lập hội quán libido, nơi những ức chế khao khát được thỏa mãn bằng chữ nghĩa khỏa thân, tha hồ tuôn chảy những hành vi phòng the giữa thanh thiên bạch nhật của người đọc và giấy trắng. Chúng tôi hiểu rằng, tình dục là một hành vi, một ứng xử văn hóa, hơn nữa nó còn là vẻ đẹp, nỗi đam mê không phải chỉ ở hành động truyền giống mà là biểu hiện của nghệ thuật và cái đẹp thiêng liêng hằng sống. Văn hóa tình dục chỉ có thể trở thành thẩm mỹ, thành niềm say mê cao cả và qúy phái khi nó xảy ra đúng nơi, đúng lúc, đúng người, đúng việc dành riêng cho nó. Nhưng khi người ta lôi tình dục ra biểu diễn trước đám đông, trước độc giả, nhất là lại núp dưới chiêu bài triết học thì xin lỗi, đó là hành vi không văn hóa. Chúng tôi phần nào thông cảm với Phạm Thị Hoài khi bà hăng say thực hành giáo điều của chủ nghĩa hiện đại là bất chấp thế giới khách quan và những khế ước của nó, bất chấp thuần phong mỹ tục, cứ mặc nhiên lột truồng cái tôi bản năng ra như lột hành lột tỏi, thả lỏng ngòi bút trôi theo dòng vô thức vô bờ bến của những thèm muốn thú tính, mặc xác mọi thứ y phục của đạo đức, cứ thoát y vũ tư tưởng và tâm hồn trong một thế giới không còn thượng đế, không còn lương tri, lòng tốt...Nhưng chúng tôi không thể thông cảm với Phạm Thị Hoài, vì thật ra bà đâu có khả năng theo chủ thuyết văn nghệ nào, dù là những chủ thuyết đã cáo chung, để tha hồ bày trên trang sách những điều tầm thường mang nhãn hiệu hiện sinh với hậu hiện đại. Bà chỉ núp dưới tên tuổi của Sartres và Camus, Kafka và Marquez, Proust và Joyce... để triết lý ba lăng nhăng dung tục nhằm câu khách rẻ tiền. Không ai cấm và không thể cấm văn học viết về đề tài tình yêu, tình dục. Nhưng là một tình yêu, một tình dục khác mang tính thẩm mỹ hướng thượng, chứ không phải theo lối viết qúa bầy hầy của Phạm Thị Hoài dưới đây. Chúng tôi xin phép trích ra không bình luận, còn những câu, những đoạn qúa quắt qúa, những trang tả chân cách mút và ngoáy lưỡi, cách lột quần áo, cách làm cho nhau hưng phấn khi làm tình...chúng tôi xin miễn trích vì sự tôn trọng độc giả:



"Đầu Nguyễn Thái Học có nhà tắm nước nóng mậu dịch mỗi xuất một sô giang mai". "Tốc hành xong khoản ấy thì dạng háng ra"." Em ơi một phát thôi không vừa rút ra ngay"(38). "Đúng năm giờ, ngày đang bước vào thời điểm đực cái bắt đầu cuốn lấy nhau...Một lát sau họ lần lượt khỏa thân. Toàn những con ngựa không có người cưỡi, xác thịt chảy buồn bã như suối"(35). "Phụ cấp năm phút nhòm chay từ dưới lên, tôi cứ váy rộng đứng chênh vênh trên ghế treo hàng là hồn vía thằng cha sà xuống cống. Mẹ kiếp thuế má dâm ô đéo chịu được". "Anh đếch biết thằng nào bóc tem em thằng nào hớt em nước đầu, anh đây xin nước hai có mầu"(40). "Thỉnh thoảng tôi chổng mông, hồn cu cậu lập tức dông lên nóc khách sạn mười tầng cao nhất Hà Nội"(41). "Nhưng đàn ông có bao giờ mòn.



Đàn bà chỉ dùng một phút là thành đồ cũ. Tôi đố anh đi cả phố tăm được con nào còn nguyên hộp"(48). "Tôi đã rót đều đều về nhà mỗi tuần một lượng tinh trùng cần thiết để duy trì hạnh kiểm của đôi bên"(109). "Anh dịch vụ tôi tôi sòng phẳng anh tuốt tiền mặt, rút ra cho vào cái đếch gì"(89). "Tôi chơi với bóng tôi trong nước tồng ngồng"(46). "Anh lượn đi cho tôi nhờ, dắt con bờ anh sang tiệm bánh ngọt"(46). "Tôi mới liếm hai đầu nhũ có mùi táo tầu"(8). " Khiếp mấy anh đầm đìa liếm lờ..."(45)... vân vân và vân vân...Những dòng viết nhơ nhớp trên, lạ thay sao có người khen nức nở và dũng cảm gọi nó là văn học hiện sinh, làm ảnh hưởng đến thanh danh và uy tín học thuyết đã qúa vãng của Sartres và Camus ?



Tóm lại, tập truyện ngắn "Man nương" có thể đã được Phạm Thị Hoài viết trong trạng thái ức chế của những khuynh hướng (refoulement des tendances)? Những ẩn ức phân tâm bị kìm hãm này đã tìm cách xì ra trang giấy một cách vô thức, vô tội vạ, bất chấp những giới hạn và hành vi giao tế là một chức năng quan trọng của văn học. Mặt khác, những quan niệm triết học và thẩm mỹ xa lạ, kỳ quái, một sự đua đòi bắt chước những phương pháp sáng tác chợ chiều, ưa làm dáng trí thức bằng khả năng của dung tục nổi loạn, cộng với sự khinh mạn con người nơi tác giả, khiến "Man nương" trở thành một cuốn sách biểu dương cái ác, cái xấu một cách quái đản và dị hợm, có khả năng làm mất cảm tình độc giả nhất trong mấy năm gần đây.



Văn học có thể viết về những điều bẩn thỉu, hạ cấp nhưng là để không đánh mất khả năng sạch sẽ và sang trọng của mình. Văn học có thể viết về vết thương nhưng là để chứng tỏ khả năng băng bó của nó chứ không phải khả năng giòi bọ, viết về nỗi tuyệt vọng nhưng để hướng về ánh sao đêm của hi vọng. Văn học có thể lăn lóc trên giường, nhưng là để hướng về hạnh phúc của cái đẹp mang tính đạo đức, chứ không phải dẫn con người vào thế giới hưởng lạc, sa đọa, vô luân. Văn học, trước hết là một cách ứng xử văn hóa, chứ không phải là câu lạc bộ của bản năng buông tuồng, sàm tấu, chửi đổng, dung tục, khiêu dâm, xúc phạm ông cha đất nước của bất cứ sự nhân danh và từ bất kỳ ai ở phía nào của đời sống, để thông báo tín điều của qụa về "một thế giới xấu ghê gớm".



Chị Minh Quân, nhà văn quen biết của Sài Gòn trước năm 1975 nói với chúng tôi rằng, với tập bản thảo "Man nương" này, ngay cả chính quyền Sài Gòn cũ cũng không dám cho xuất bản vì nó vừa tục tĩu, vừa nói xấu vua Hùng và Trần Hưng Đạo. Rất tiếc, nhà xuất bản Hà Nội, một nhà xuất bản vốn có uy tín, năm 1995 đã làm một việc không thể hiểu nổi là cho in cuốn "Man nương", xúc phạm lòng tự trọng và tình yêu văn học của bạn đọc xa gần.,.


Rút trong tập “ Văn học- Phê bình- Tranh luận” của Trần Mạnh Hảo – NXB Lao Đ ộng – Hà Nội 2004


Trần Mạnh Hảo - 2004
Đọc thêm!