Thứ Tư, 22 tháng 2, 2012

Nghĩ Về Ảnh Hưởng Của Chúa Giê-Su

Mục Sư Nguyễn Văn Huệ

Trong lịch sử của nhân loại không có một người nào có ảnh hưởng tốt cho thế giới nầy hơn Chúa Giê-su. Danh Chúa Giê-su được nhắc đến, được tôn vinh hơn tất cả mọi danh. Sự xuất hiện của Chúa Giê-su trên thế giới đã chia đôi dòng lịch sử của nhân loại. Không một người nào có ngày sinh hay ngày chết mà không dựa trên năm sinh của Chúa Giê-su. Hiện nay có hơn 2 tỉ người tin nhận Chúa Giê-su, tôn thờ Ngài là Đấng Cứu Thế, cầu nguyện với Ngài và noi gương Ngài để tiếp tục biến đổi thế giới trở nên tốt đẹp hơn.
Skip to content
Skip to main navigation
Skip to 1st column
Skip to 2nd column
Skip to 2nd column






Hội ThánhHình Ảnh

Bài GiảngMS Võ Bá Thanh
MS Lê Thành Chung
MS Lâm Bảo Nhơn
Khách Mời

Phấn Hưng
Truyền Giảng-Tâm Tình Chứng Đạo
. ..







Nghĩ Về Ảnh Hưởng Của Chúa Giê-Su


Thursday, 29 July 2010 10:03 Mục sư Võ Bá Thanh


.

Mục Sư Nguyễn Văn Huệ

Trong lịch sử của nhân loại không có một người nào có ảnh hưởng tốt cho thế giới nầy hơn Chúa Giê-su. Danh Chúa Giê-su được nhắc đến, được tôn vinh hơn tất cả mọi danh. Sự xuất hiện của Chúa Giê-su trên thế giới đã chia đôi dòng lịch sử của nhân loại. Không một người nào có ngày sinh hay ngày chết mà không dựa trên năm sinh của Chúa Giê-su. Hiện nay có hơn 2 tỉ người tin nhận Chúa Giê-su, tôn thờ Ngài là Đấng Cứu Thế, cầu nguyện với Ngài và noi gương Ngài để tiếp tục biến đổi thế giới trở nên tốt đẹp hơn.

NGÀI ĐÃ ĐẾN TRONG THẾ GIỚI CÓ QUÁ NHIỀU NGƯỜI NÔ LỆ

Chúa Giê-su đã giáng thế cách nay hơn 2000 năm. Các môn đồ đầu tiên của Ngài đều là người Do Thái, nhưng nền văn hóa thế tục lúc bấy giờ chịu ảnh hưởng nặng bởi văn hóa Hy Lạp và La Mã. Ảnh hưởng văn hóa Hy Lạp do A-lịch-sơn Đại Đế truyền bá đã thâm nhập vào Đế Quốc La Mã tiếp theo sau đó và đã tạo nên văn hóa Hy La. Ngôn ngữ Hy Lạp được phát triển như một sinh ngữ quốc tế trong thế giới đương thời giống như tiếng Anh trong thế giới ngày nay. Kinh Thánh Tân Ước được viết bằng tiếng Hy Lạp. Nhưng văn hóa Hy La không coi trọng con người, chẳng hạn các triết gia Hy lạp như Aristote và Plato tin rằng hầu hết nhân loại đều mang bản tính nô lệ và chỉ xứng làm nô lệ. Tinh thần tương tự như thế đã mang vào nền văn hóa của người La Mã. Theo William Barclay, "Có khoảng 60,000,000 người nô lệ trong Đế Quốc La Mã, mỗi người nô lệ dưới mắt luật pháp không phải là một người nhưng chỉ là một vật, không có quyền gì cả."

Chúa Giê-su đã đến và sống giữa một thế giới mà con người không được coi trọng. Tuy nhiên, Ngài đã coi trọng con người. Các môn đồ đầu tiên của Ngài là những người bình dân, người đánh cá. Ngài tiếp xúc và đi lại giữa những người nghèo. Ngài nói chuyện với những người thâu thuế, những người phụ nữ sa ngã, những người bệnh tật, những thiếu nhi. Ngài được mô tả là "ăn chung với phường thâu thế và những tội nhân" (Mác 2:16).

Các môn đồ của Chúa đều chấp nhận sự kiện rằng trong cộng đồng tân tạo của Chúa là Hội Thánh, mọi thành viên đều bình đẳng trước mặt Đức Chúa Trời. Sứ đồ Phao-lô mô tả, "Tại đây không còn chia ra người Do Thái hoặc người Hy Lạp, không còn người nô lệ hay chủ nhân, không còn đàn ông hay đàn bà, vì trong Đức Chúa Giê-su Christ, anh em thảy đều làm một" (Ga-la-ti 3:28; Cô-lô-se 3:10-11). Nhờ Chúa Giê-su mà ngày nay nhân quyền được tôn trọng khắp nơi.

NGÀI DẠY MỌI NGƯỜI ĐỀU BÌNH ĐẲNG TRƯỚC MẶT ĐỨC CHÚA TRỜI

Quan điểm của Chúa Giê-su về sự bình đẳng của mọi người trước mặt Đức Chúa Trời đã làm cho người đương thời sững sốt, ngạc nhiên. Các môn đồ của Chúa thuộc đủ mọi thành phần xã hội. Thử tưởng tượng trong Hội Thánh đầu tiên có những người nô lệ được chọn lên làm lãnh đạo Hội Thánh, còn những chủ nhân thì làm hội viên. Dưới chân thập giá mọi người đều bằng nhau. Hội Thánh không chủ trương thay đổi ngay cục diện xã hội đương thời vì Chúa Giê-su muốn xây dựng vương quốc thiêng liêng trong lòng người, những người được thay đổi từ bên trong. Ngài phán, "Nước ta không thuộc thế gian nầy." Một thế kỷ trước đó, có một người tên Spartacus lãnh đạo một cuộc nỗi dậy của những người nô lệ, hậu quả là cuộc nỗi dậy đã bị đàn áp thẳng tay và có 6,000 người nô lệ đã bị tử hình. Truyền thống văn hóa của con người không dễ đổi thay. Người theo Chúa luôn luôn kiên nhẩn, chờ đợi thời điểm của Chúa làm. Cuối cùng chế độ nô lệ đã chấm dứt, bắt đầu bằng những người tin Chúa được thúc đẩy bởi tư tưởng của Chúa Giê-su. Tín hữu Chúa Giê-su là nhóm người đầu tiên phát động phong trào chống tệ buôn bán nô lệ. Ở Anh Quốc có William Wiberforce chỉ nhờ niềm tin nơi lời dạy của Chúa Giê-su đã tranh đấu cho việc chấm dứt nô lệ và sau rất nhiều gian khổ ông đã thành công. Năm 1833 chế độ nô lệ bị đặt ra ngoài vòng pháp luật ở Anh Quốc. Bị áp lực bởi những nhóm tín hữu trong nước, Anh Quốc đã đi đầu trong việc chống lại nạn nô lệ trên thế giới. Việc nầy ảnh hưởng đến Hoa Kỳ và nạn nô lệ tại đây đã chấm dứt trong thời Tổng Thống Abraham Lincoln. Nhờ Chúa Giê-su mà ý niệm "mọi người do Đức Chúa Trời sinh ra đều bình đẳng" đã được nói đến trong nhiều bản hiếp pháp của nhiều quốc gia.

NHỜ NGÀI, GIỚI PHỤ NỮ ĐƯỢC TÔN TRỌNG

Văn hóa thế kỷ thứ nhất coi người phụ nữ như đồ vật chứ không như con người. Dưới nền văn minh Hy Lạp, phụ nữ phải ở trong nhà và vâng lời chồng. "Họ phải thấy ít, nghe ít và nói ít." Họ không thể sống độc lập nhưng có thể bị chồng bỏ cách dễ dàng. Dưới luật La Mã, người phụ nữ không có quyền hạn gì. Họ mãi mãi giống như những đứa con nít. Ở nhà họ ở dưới quyền cha, theo đó người cha có quyền để cho sống hay giết chết, khi có chồng thì họ được chuyển qua quyền của chồng giống y như vậy. William Barclay cho biết một người La mã tên là Cato the Censor đã viết, "Nếu anh bắt được vợ anh đang có hành động bất trung, anh có thể giết nàng mà không cần xét xử."

Trong văn hóa Do Thái thế kỷ thứ nhất, người phụ nữ cũng bị coi thường. Lời làm chứng của họ được xem không có giá trị, vì thế họ thường không được phép làm chứng trước toà. Phụ nữ cũng được xem là không xứng đáng để được dạy dỗ những việc thuộc linh. Các môn đồ của Chúa Giê-su đều là người Do Thái, họ chịu ảnh hưởng của truyền thống văn hóa đương thời và đã kinh ngạc trước lời dạy và thái độ cũa Chúa Giê-su với giới phụ nữ. Họ kinh ngạc khi Chúa Giê-su nói chuyện với người đàn bà Sa-ma-ri, một phụ nữ và là người dân thuộc về một dân tộc bị người Do Thái coi khinh. Nhưng Chúa Giê-su đã nêu gương tốt yêu thương kính trọng mọi người, không phân biệt nam nữ, giàu nghèo và sau này các môn đồ đã noi theo gương Ngài. Họ đã dạy dỗ các phụ nữ và chấp nhận phụ nữ có đủ tư cách thành viên trong Hội Thánh. Các môn đồ sau nầy cũng đến giảng Tin Lành cho người dân Sa-ma-ri. Một môn đồ của Chúa Giê-su là Phi-e-rơ đã viết cho những người chồng rằng vợ của họ "sẽ cùng anh em hưởng phước sự sống, nên phải kính nể họ" (1 Phi-e-rơ 3:7). Sứ đồ Phao-lô cũng kính nể và làm việc chung với giới phụ nữ. Ông nhắc đến nhiều người phụ nữ danh tiếng trong thư ông gởi cho Hội Thánh Rô-ma (Rô-ma 16:12). Giới phụ nữ đã không được kính trọng như thế trong các truyền thống các tôn giáo và xã hội khác. Nếu không có Chúa Giê-su và những giáo huấn của Ngài, tình trạng "trọng nam khinh nữ" sẽ khó mà thay đổi trong xã hội loài người. Nhờ Chúa Giê-su mà nữ giới ngày nay bình đẳng với nam giới trong mọi phương diện.

NHỜ NGÀI, TRẺ EM ĐƯỢC BẢO VỆ VÀ YÊU THƯƠNG

Trẻ em là thành phần dễ bị thương tổn trong xã hội. Xã hội Hy La đối xử tàn bạo và lạnh lùng với giới trẻ em. Nhưng trong thời Cơ-đốc giáo thì khác. Ngay từ đầu Cơ-đốc giáo đã tử tế yêu thương, bảo vệ và nuôi dưỡng trẻ em. Việc giết chết trẻ em rất phổ biến ngoài xã hội. Những trẻ em mới sinh bị dị dạng, yếu sức thường bị trấn nước cho chết. Những bé gái mới sinh không được bảo vệ. Rất hiếm có gia đình Hy Lạp nuôi nhiều hơn một cô con gái cho dù gia đình đó giàu có đến đâu. Trong xã hội La Mã những ông cha giàu có thường quyết định giết con để khỏi phiền phức chia gia tài. Trẻ em cũng bị bỏ rơi. Thế giới Hy La vứt bỏ trẻ em ra đường, ai muốn nuôi thì đem về nuôi. Thông thường những người theo Chúa chẳng những lên án hành động vứt bỏ trẻ con nhưng đã đem các em về làm con nuôi. Truyền thống "Adoption" (nhận con nuôi) bắt đầu từ những người theo Chúa.

Nạn giết và vứt bỏ trẻ em đã không thấy xảy ra trong xã hội Do Thái vào thế kỷ thứ nhất. Chắc chắn truyền thống nầy chịu ảnh hưởng bởi lời dạy của Chúa trong Kinh Thánh Cựu Ước. Qua lời Chúa dạy, người Do Thái tin rằng mỗi người sinh ra đều mang hình ảnh Đức Chúa Trời và vì thế họ tin mạng sống con người là quý. Tuy nhiên Chúa Giê-su đã đi xa hơn xã hội đương thời trong thái độ đối với trẻ em. Trong Ma-thi-ơ 19:13-14, Chúa Giê-su bảo các môn đồ, hãy để con trẻ đến cùng Ngài, đừng ngăn cản, vì nước trời thuộc về những kẻ giống như con trẻ ấy. Xem thêm Lu-ca 18:15 cũng có lời Chúa dạy như thế. Đối với Chúa Giê-su, trẻ em là quan trọng và Ngài dạy chúng ta hãy nên đối xử với các em một cách yêu thương, đặc biệt quan tâm chăm sóc, không bao giờ làm cho trẻ em vấp phạm. Sứ đồ Phao-lô cũng dạy, "Hỡi các người làm cha, chớ chọc cho con cái mình giận dữ, hãy dùng sự sửa phạt khuyên bảo của Chúa mà nuôi nấng chúng nó (Ê-phê-sô 6:4). Trong một xã hội mà quyền người cha được tôn tuyệt đối như trong xã hội La Mã, những lời dạy của Phao-lô cho thấy tinh thần yêu thương đối với trẻ em là cân đối, đáng quý trọng. Trẻ em là cơ nghiệp Chúa ban và cũng hưởng ơn cứu rỗi giống như cha mẹ. Nhờ Chúa Giê-su mà thiếu nhi ngày nay được quý trọng và có tương lai.

NHỜ NGÀI, NHỮNG NGƯỜI ĐAU ỐM TẬT NGUYỀN ĐƯỢC THƯƠNG XÓT, CHỮA LÀNH

Thế giới thế kỷ thứ nhất không có chút cảm tình với người đau ốm tật nguyền. Không ai quan tâm đến việc làm giảm bớt khổ đau cho dân chúng. Lòng thương xót thật hiếm, chẳng hạn Plato (427-347 B.C.) nói rằng một người nghèo… không làm việc được nữa vì bệnh phải để cho chết. Khi đến thế gian trong một thế giới thiếu lòng thương người như thế, Chúa Giê-su đã có thái độ khác biệt hoàn toàn. Ma-thi-ơ 14:14 mô tả, "Ngài ở thuyền bước lên, thấy đoàn dân đông đúc, động lòng thương xót, mà chữa cho kẻ bệnh được lành." Luca 9:1-2 mô tả, "Chúa Giê-su nhóm họp 12 sứ đồ, ban quyền năng phép tắc để trị quỷ chữa bệnh. Rồi Ngài sai đi rao giảng về nước Đức Chúa Trời cùng chữa lành kẻ có bệnh." Thế kỷ đầu tiên không có bệnh viện, nhà thương. Sau nầy những cơ sở từ thiện và bệnh viện đều là do các Hội Thánh của Chúa xây dựng và phát triển. Một sử gia đã viết, "Vào năm 750 sự phát triển của các bệnh viện Cơ-đốc, hoặc đứng riêng hoặc dính với các tu viện, đã lan tràn từ lục địa Âu Châu đến Anh Quốc." Trong thời hiện đại nhất là thế kỷ 20, nhiều bệnh viện lớn được xây dựng ở các nước Tây Phương. Ảnh hưởng của nền văn hóa Cơ-đốc về tình thương đối với người bệnh được tỏ ra trong con số rất lớn những bệnh viện danh tiếng mang tên của những tín hữu Cơ-đốc, những nhà lãnh đạo Cơ-đốc hay theo tên những Giáo Phái Tin Lành. Nhờ Chúa Giê-su mà nỗi đau của nhân loại đã vơi đi rất nhiều.

NHỜ NGÀI, TRAI GÁI ĐỀU ĐƯỢC HỌC HÀNH

Trường học không phải là mới trong thế kỷ thứ nhất. Thế nhưng chỉ có Cơ-đốc giáo mới đem lại quyền được học hành của mọi người, cả nam lẫn nữ, trai lẫn gái. Trong nền văn hóa Hy La chỉ có con trai của những người nhà giàu khá giả mới được học hành. Khi Hội Thánh được thành lập mọi tín hữu được khuyến khích học tập, để biết đọc và làm theo lời Chúa. Dần dần ảnh hưởng giáo dục của Hội Thánh lan tràn ra xã hội. Nhiều trường đại học đầu tiên ở Mỹ và Anh đều được thành lập với mục đích đào tạo giới lãnh đạo Hội Thánh và giúp các sinh viên học Kinh Thánh. Chẳng hạn khi trường Harvard College… được chính thức thành lập năm 1650 nhằm mục đích giáo dục "những người trẻ của quốc gia nầy trong sự hiểu biết và tin kính Chúa". Cơ-đốc Giáo là cha đẻ của nền giáo dục hiện đại. Ở hầu hết các nước Âu Châu, Phi Châu và Nam Mỹ và nhiều nước trên thế giới, nạn thất học đã được đẩy lùi, chữ viết và sách vở được xuất bản, không phải là chuyện tình cờ nhưng là kết quả do những cố gắng của các giáo sĩ đem đến với lòng mong muốn mọi người đều được biết chữ để chẳng những đọc được lời Chúa nhưng để thoát cảnh tối tăm và theo kịp đà tiến của nhân loại. Chúng ta không quên chữ Quốc Ngữ (Việt Ngữ) do một Linh mục Công Giáo sáng chế và phổ biến. Các giáo sĩ Hội Dịch Kinh Thánh Wycliff cũng đã tạo ra chữ viết cho hàng ngàn dân tộc trên khắp thế giới. Kinh Thánh đã được dịch ra hơn 2000 thứ tiếng. Nhờ Chúa Giê-su mà nạn dốt chữ đang được đẩy lùi.

NHỜ NGÀI, NGƯỜI NGHÈO ĐƯỢC GIÚP ĐỠ

Trong xã hội Hy La, tinh thần vị kỷ "sống chết mặc ai" rất phổ biến như một lối sống. Chúa Giê-su đem đến lối sống vị tha, thương người như thể thương thân, hy sinh cứu giúp người khác, quên mình vì chính nghĩa, coi người khác như tôn trọng hơn mình. So với những người ngoại đạo, các tín hữu của Chúa Giê-su là những người rộng rãi nhất, họ ban ơn mà không mong người nhận ơn trả lại. Hơn nữa họ không chỉ ban cho những tín hữu khác mà còn ban cho cả người không tin nữa. Sứ đồ Phao-lô dạy, "Trong lúc có dịp tiện, hãy làm điều thiện cho mọi người, nhất là cho anh em cùng đức tin (Ga-la-ti 6:10). Đạo đức học Cơ-đốc luôn khuyến khích sự ban cho cách rộng rãi. Lời Chúa Giê-su luôn được nhắc đến, "Ban cho thì có phước hơn là nhận lãnh." Gương người Sa-ma-ri nhân lành do Chúa kể là gương thương người, cứu người hoạn nạn đã trở thành động cơ mạnh mẽ của những hội từ thiện khắp thế giới. Những đức tính khiêm nhường, thương xót, tha thứ, hy sinh vì người khác đều là những lời dạy và lối sống do Chúa Giê-su mang đến cho nhân loại. Nhiều người hiện nay đang làm theo gương Chúa Giê-su. Xã hội loài người có thay đổi lớn là nhờ ảnh hưởng của Chúa Giê-su. Một học giả Tây phương đã viết, "Dù là người tin hay không tin bạn cũng phải kính trọng Cơ-đốc giáo như là một phong trào đã tạo ra nền văn minh của chúng ta" (Believer and non-believer alike should respect Christianity as the movement that created our civilization. -D'Souza).

NGÀI LÀ MỘT NGƯỜI DO THÁI…

Chúa Giê-su đến thế gian không phải làm người Trung Hoa, Ấn Độ hay Việt Nam, Ngài đến trong dòng giống người Do Thái. Ngài phán, "Sự cứu rỗi từ người Do Thái mà đến." Vậy bạn không nên nhờ cậy người Trung Hoa hay người Ấn Độ để được cứu rỗi nữa. Hãy nghe lời dạy của Chúa Giê-su. Hãy làm theo lời khuyên của Kinh Thánh. Đức Chúa Trời đã chọn Áp-ra-ham, tổ phụ của dân Do Thái, để làm nguồn phước cho các dân tộc trên thế giới. Áp-ra-ham là tổ phụ đức tin của cả khối người theo Do Thái Giáo, Cơ-đốc Giáo và Hồi Giáo. Ngày nay người Do Thái vẫn là một dân tộc đặc biệt trên thế giới. Từ năm 1901 đến năm 2007 trên thế giới có 777 giải Nobel dành cho những nhà bác học giỏi nhất và những nhân tài lỗi lạc nhất trên thế giới. Trong số đó có 176 người Do Thái được chọn trúng giải Nobel. Dân số Do Thái hiện nay khoảng 13 triệu người trên thế giới, nghĩa là chưa đến tỉ lệ 1% dân số thế giới, nhưng họ đã chiếm được 23.6% số giải Nobel trên thế giới. Thế giới vẫn tiếp tục ngạc nhiên về người Do Thái và lịch sử dân tộc Do Thái.

Bạn thân mến:

Trải qua hơn hai ngàn năm, thế giới có dân Do Thái tản lạc, tồn tại và hồi hương lập quốc. Nhân dân khắp năm châu có Cơ-đốc Giáo, có Lễ Giáng Sinh và Lễ Phục Sinh, có ngày Chúa Nhật, có niên hiệu Dương lịch Trước Chúa (TC) và Sau Chúa (SC), hằng năm có hàng triệu người hành hương thánh địa, có di tích ngôi mộ trống, có một phần ba dân số thế giới xưng mình là Cơ-đốc nhân (Christian), có nhà thờ, bệnh viện, có các Trường Đại Học, có các Đại Chủng Viện, có Hội Hồng Thập Tự và các tổ chức bác ái từ thiện, có nền văn minh, văn hóa hiện đại, có khoa học kỹ thuật tiên tiến, đời sống phụ nữ và trẻ em được nâng cao, nhân quyền được tôn trọng v.v... Rồi còn bao nhiêu cuộc đời đã được đổi mới với kinh nghiệm ngọt ngào, vui tươi, sống động khi gặp gỡ Chúa Cứu Thế Giê-su.

Tất cả những thực tế đó là kết quả của đời sống và ảnh hưởng của Chúa Giê-su. Chúng ta có thể kết luận rằng Chúa Giê-su là Đấng Cứu Nhân Độ Thế và thế giới không được như ngày nay nếu không có Ngài.

Những bằng chứng thực tế hùng hồn nói trên về đời sống và ảnh hưởng của Chúa Giê-su có làm cho bạn suy nghĩ ít nhiều về bổn phận của bạn đối với Chúa Giê-su hay không? Chỉ cần bình tĩnh sáng suốt suy nghĩ một chút cũng đủ để chúng ta tin Ngài, chạy đến với Ngài, cảm tạ Ngài và cảm kích tôn thờ Ngài. Chúa Giê-su xứng đáng làm Chúa, làm chủ của lòng bạn và lòng tôi.

Mục Sư Nguyễn Văn Huệ
http://www.vcbc-aurora.org/cms/index.php?option=com_content&view=article&id=37:ngh-v-nh-hng-ca-chua-gie-su&catid=7:truyen-giang&Itemid=12

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cám ơn bạn đã đọc bài viết. bạn có nhận xét gì về bài viết và quan điểm của bạn hãy để lại vài lời chia sẻ cùng mọi người. Xin lưu ý bạn, các nhận xét không có tính góp ý xây dựng sẽ bị xoá ngay. Các nội dung gõ bằng tiếng Việt, có dấu rõ ràng sẽ không làm người khác hiểu lầm. Xin trân trọng cảm ơn bạn đã ghé thăm blog.Chúa ban phước cho bạn!