Thứ Hai, 31 tháng 8, 2009

Nhân vật Ivan Karamazov : Thượng đế chỉ hành hạ những vĩ nhân!

Một cách cực đoan, Ivan Karamazov diễn đạt nỗi đau của chính Dostoievski, con người “suốt đời bị Thượng đế hành hạ”, bởi vì ông cũng không bao giờ là con chiên ngoan đạo một chiều của Ngài. Yêu Thượng đế và đinh ninh rằng không có niềm tin vào Thượng đế chí thiện, chí tôn thì loài người sẽ không tồn tại được, Dostoievski lục vấn Ngài bằng những câu hỏi mà cho đến bây giờ thần học Kitô giáo vẫn vắt óc tìm giải đáp…

Nếu Dmit’ri Karamazov trước hết là con người tình cảm, thì em trai cùng cha khác mẹ của chàng - Ivan - trước hết là con người của trí tuệ. Ivan là nhân vật thông minh nhất, cả nghĩ nhất trong tất cả các nhân vật của Dostoievski (mà trong thế giới của ông, ai ai cũng cả nghĩ, ai ai cũng thông minh theo cách của mình). Không phải ngẫu nhiên tác giả để cho nhân vật này phát biểu những tư tưởng thâm thúy nhất, tinh vi huyền diệu nhất trong tiểu thuyết. Nhưng Ivan hoàn toàn không phải là cái loa của tác giả, mà là một nhân cách, một vũ trụ tinh thần độc lập. Trong cái nhân cách cũng nhiều chiều, được xây dựng trên nhiều tọa độ đan chéo ấy, ta thấy nổi lên, như một dấu hiệu của thời đại, độ vênh lớn giữa phát triển lí tính và phát triển đức tính, giữa “tài” và “tâm”.

Đây là nguồn gốc của bi kịch con người của Ivan. Trí tuệ siêu việt không đi đôi với trái tim đôn hậu luôn luôn khiến Ivan nhìn người đời bằng con mắt khinh bỉ, nuôi dưỡng ở chàng lòng cao ngạo quá mức. Thái độ khinh thị, ngạo mạn ấy khiến Ivan hà khắc với mọi biểu hiện không hoàn hảo ở những người xung quanh mình và mất cảnh giác với sự không hoàn hảo của chính mình. Ngay với người cha và người anh xung khắc nhau, Ivan cũng chỉ một lòng khinh ghét, đến mức muốn cả hai biến khỏi mặt đất. “Con vật đốn mạt này ăn thịt con kia, cả hai đều đáng kiếp!” Cái ý muốn độc ác ấy, mà nhà đại trí thức Ivan giữ trong tiềm thức, Smerdiakov đê tiện nghe thấy và đã biến thành hành động. Smerdiakov giết cha, cướp tiền, đinh ninh rằng có Ivan đồng tình và cho phép, có Ivan chia sẻ trách nhiệm. Sau này, trước khi treo cổ tự tử để không phải ra tòa, hắn nói thẳng vào mặt Ivan : “Ông mới là kẻ chủ tâm giết cha, còn tôi chỉ là đầy tớ trung thành, người thừa hành ý chí của ông!” Smerdiakov, “kẻ song trùng” của Ivan, đã mở mắt cho triết nhân cao đạo này thấy hết cái phần thấp kém, đáng ghét bỏ trong nhân cách của chính chàng; đồng thời hắn bắt Ivan “thưởng thức” cái chiến quả thực tiễn của triết lí mà chàng vẫn rao giảng : nếu không có sự bất tử, tức là cuộc sống vĩnh hằng trong Thượng đế, thì loài người có thể ứng xử với nhau thế nào cũng được, tất cả đều được cho phép. Ivan nhận ra mình là kẻ đồng lõa giết cha cả về mặt tâm lí lẫn lí thuyết (một lần nữa, Dostoievski cảnh báo về cái lợi hại khôn lường của mọi lí thuyết!). Không chịu đựng được sự thật quá phũ phàng, nhân vật của Dostoievski mất trí.

Fiodor Mikhailovich Dostoievski

Ngay trước khi loạn trí, Ivan nói như ném vào mặt mọi người tập hợp trong tòa án : “Ai ai cũng muốn cha chết!” Lời độc địa ấy không phải là lời vu khống hoàn toàn. Trong bốn anh em nhà Karamazov, ba người trực tiếp hay gián tiếp giết cha, người thứ tư có thể bảo vệ được cha mình, nhưng đã không bảo vệ. Thảm kịch của gia đình Karamazov, theo tư tưởng của Dostoievski, điển hình cho một trạng thái nhân thế mà trong đó “cha là từ đáng ghét nhất, còn con là từ hạ nhục nhất”, như một triết gia Nga (N.Fiodorov), mà Dostoievski rất hâm mộ, nói. Môtip con giết cha trong tiểu thuyết đan bện khăng khít với môtip loài người nổi dậy chối bỏ Thượng đế.

Ivan Karamazov nổi dậy chống Thượng đế, và đây là con người nổi loạn có lực nhất trong thế giới nghệ thuật của Dostoievski. Ivan xuất phát từ tình yêu thương đồng loại. Không yêu được những con người gần cận, Ivan yêu tha thiết nhân loại xa viễn, thương xót thân phận khổ đau của họ. Những nỗi thống khổ không thể biện giải của muôn triệu trẻ thơ vô tội, còn hoàn toàn trong trắng, chưa có ý niệm về thiện ác là lập luận chính mà Ivan dùng để buộc tội Thượng đế không có mắt. Một cách cực đoan, Ivan Karamazov diễn đạt nỗi đau của chính Dostoievski, con người “suốt đời bị Thượng đế hành hạ”, bởi vì ông cũng không bao giờ là con chiên ngoan đạo một chiều của Ngài. Yêu Thượng đế và đinh ninh rằng không có niềm tin vào Thượng đế chí thiện, chí tôn thì loài người sẽ không tồn tại được, Dostoievski lục vấn Ngài bằng những câu hỏi mà cho đến bây giờ thần học Kitô giáo vẫn vắt óc tìm giải đáp. Hình như ông tôi luyện đức tin trong sự đối diện và đối thoại không ngừng với cấp cao nhất. Một trong những cuộc đối thoại như thế được ghi lại cho muôn đời trong Truyền thuyết về Đại pháp quan.

Trong kiệt tác hay được so sánh với các sách Thánh của loài người này, ta chỉ dừng lại ở một khía cạnh nội dung. Viên Đại pháp quan thương người, nhưng không tin vào con người và từ đấy mà không tin vào Thượng đế. Đại pháp quan nói với Kitô, con Chúa Trời : “Xin thề, con người được tạo ra yếu thấp hơn ông nghĩ về nó”. Cái mà con người cần nhất là bánh mì (tức là sự no đủ vật chất) thì Kitô không bảo đảm cho nó, nhưng Ngài lại ban cho nó cái mà nó không chịu đựng nổi - tự do tinh thần, tự do lương tâm. Tự do đi đôi với trách nhiệm, mà con người của số đông sợ nhất trách nhiệm và chỉ mong có ai gánh trách nhiệm ấy cho nó. Do bản chất thấp kém ti tiện, Đại pháp quan suy luận tiếp, loài người sẽ chẳng bao giờ chia sẻ ổn thỏa phúc lợi vật chất với nhau, cho dù những phúc lợi ấy có thừa, bao giờ cũng cần một thiểu số đặc tuyển đứng ra đảm trách việc phân phối. Miếng bánh mì trần gian mà con người tự làm ra, nhưng không chia được với nhau, khi được phân phối từ trên xuống, sẽ tự trở thành “phép mầu”, cái phép mầu mà loài người luôn luôn chờ mong ở Thượng đế nhưng chẳng bao giờ nhận được. Vậy thì, vì hạnh phúc và yên bình của loài người, cái thiểu số đặc tuyển đã nắm được phần xác phải nắm cả phần hồn của họ, phải độc chiếm chân lí và làm cho loài người chỉ tin vào một chân lí được phát ra từ miệng những người cai trị. Đó là cốt lõi của cái học thuyết về “phép mầu, bí mật và quyền uy” mà Đại pháp quan mưu toan dùng để thống trị mãi mãi loài người, để sửa đổi lại cái “kì công” kém hiệu quả của Kitô. Đại pháp quan - con chiên bề ngoài của Kitô - thả Kitô ra khỏi nhà giam và nói : “Hãy đi và đừng bao giờ trở lại”.

Dễ thấy là ở Đại pháp quan, lòng thương người chỉ là cái áo bên ngoài che giấu sự khinh bỉ vô hạn bên trong. Đại pháp quan chủ trương chăn dẫn loài người như chăn dẫn những động vật bầy đàn. Đại pháp quan chủ mưu kiến tạo một tôn giáo mới, trên cơ sở thỏa mãn những nhu cầu vật chất của con người mà bóp chết những nhu cầu tinh thần của nó, tước đoạt hoàn toàn tự do lương tri và quyền tự quyết của nó, bắt nó tôn thờ những chúa đất đã chiếm ngôi Chúa Trời. Tôn giáo của Dostoievski khác một trời một vực tôn giáo của Đại pháp quan. Đó là tôn giáo của những đứa con tự do, bình đẳng và hợp quần của một người cha thống nhất. Nó không cần đến phép mầu, bí mật và quyền uy. Nó có yếu tố siêu nhiên, nhưng cái siêu nhiên ở đây không hoàn toàn xa lạ, không dị chất với cái tự nhiên, mà là nguyên nhân và kết quả của sự hoàn hảo hóa cái tự nhiên. Giêxu Kitô, một thần - nhân hoàn hảo đã chiến thắng cái chết, theo Dostoievski, là mẫu mực lí tưởng của con người.

Truyền thuyết về Đại pháp quan, bề ngoài là một lời tố cáo, lời buộc tội đanh thép Kitô, đích thực là lời ngợi ca kín đáo, thấm thía. Nghệ thuật ngôn từ phức điệu ở đây đạt độ siêu đẳng. Trong Truyền thuyết, Kitô không nói một lời nào, cứ để cho Đại pháp quan một mình độc thoại, nhưng càng biện bạch, tên giáo chủ phản Chúa này càng cảm thấy rõ Kitô biết trước tất cả những gì y sẽ nói và chỉ một sự hiện diện của Ngài, sau mười lăm thế kỉ vắng mặt, đã thừa sức đập tan mọi luận điệu của y.

Cũng như Đại pháp quan, Ivan liệt mình vào cái thiểu số rất ít ỏi vượt hẳn lên bên trên loài người, do thấu hiểu bản chất thấp hèn của con người phổ biến mà bác bỏ đạo đức, luân lí, tín ngưỡng của nó, cho phép mình “bước qua” tất cả những thứ ấy. Vì vậy cho nên mỗi khi phát hiện ra trong mình những biểu hiện của con người bình thường, Ivan phẫn nộ xung đột với chính mình. Và khi cuộc xung đột ấy đạt cao điểm, người trí thức siêu hạng này bắt gặp trong tâm thần phân liệt của mình một sinh linh thù địch muôn đời cả với thần thánh lẫn con người : quỷ dữ. Quỷ dữ xuất hiện trong tiểu thuyết như một “kẻ song trùng” khác của Ivan siêu hạng bên cạnh Smerdiakov mạt hạng, và hóa ra, nó cũng tầm thường, dung tục như Smerdiakov. Bi kịch và đồng thời diễm phúc của Ivan (cũng như của Raskolnikov trước đó) là chàng không thể diệt trừ đến cùng cái chất người ấy ở trong chàng : tình yêu sự sống, yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp, yêu những thành quả cao quý của văn hóa loài người, khát khao sự tri ngộ, cảm thông của đồng loại... vẫn gắn bó Ivan với cuộc đời.

Thất bại của Ivan, ở một phương diện quan trọng, là thất bại của lí trí và lí tính thuần túy trước “cuộc sống sống động” (một tổ từ và một tư tưởng mà Dostoievski rất yêu chuộng) rộng lớn và phong phú hơn nó rất nhiều, luôn luôn uốn nắn nó, không để cho nó chiếm vị trí độc tôn, chi phối toàn bộ cuộc sống con người. Trong cuộc sống của con người và loài người bao giờ cũng có chỗ và phải để chỗ cho tình cảm và trực giác tự nhiên, cho đức tin hồn nhiên, cho cái thiện nằm sâu hơn và vững chắc hơn cái ác trong bản chất con người. Trong Anh em nhà Karamazov, cái thiện ấy và đức tin ấy biểu lộ tập trung qua hình tượng Aliosha, em trai Ivan, và cha trưởng lão Zosima.

Theo ý đồ của tác giả nêu trong Lời nói đầu, Aliosha mới là nhân vật chính của bộ tiểu thuyết sẽ gồm hai tập. Ở tập đầu, Aliosha còn chưa thành niên và không tham gia trực tiếp vào những sự kiện được miêu tả. Aliosha chứng kiến và nghe nhiều hơn nói và hành động. Thế nhưng, rất nhiều nhân vật trong truyện bị cuốn vào hành động lại hướng về người thanh niên trẻ măng này như hướng về lương tâm của chính mình. Với họ, Aliosha là người hòa giải, người bênh vực, người khuyên bảo, người đàm đạo tâm tình. Trong một nhân quần bị xâu xé đến tan nát vì thù ghét và nghi kị, Aliosha gieo hạt giống không băng hoại của sự tin cậy và cảm thông. Do bản chất trong sáng vô tư, con người này không có mặc cảm, không sợ bị khinh bỉ, xúc phạm, hạ nhục.

Aliosha là một “thiên tài của nhân tính”, chúng tôi nhớ tới định thức ấy của Chekhov, bởi vì trong các nhân vật của Dostoievski, nhân vật này gần gũi nhất với bút pháp Chekhov : không có gì đặc sắc, không có gì nổi bật, gần như mờ nhạt bên cạnh những nhân vật bi kịch, nó vẫn ăn sâu vào trí nhớ người đọc, thu hút cảm tình của ta từ lúc nào ta không biết. Giữa Aliosha Karamazov và công tước Mưskin có nhiều nét chung, nhưng tác giả có dụng ý nhấn mạnh ở Aliosha tính hoàn toàn bình thường, sự khỏe mạnh tinh thần và thể chất của con người này. Khác với một Mưskin hầu như phi giới tính, Aliosha mang trong mình dòng máu Karamazov, biết sức mạnh của dục tính, nhục dục, rất hiểu người cha và người anh cả của mình. Aliosha đi tu không phải vì muốn xa lánh sự đời, muốn bảo toàn sự trong sạch của thân thể, mà vì tâm hồn chàng khát khao sự thánh thiện và bị thu phục bởi tấm gương thánh thiện của cha trưởng lão Zosima.

Dostoievski đã phải mất hơn một thập niên tìm kiếm, suy ngẫm để đến với hình tượng này. Nó vừa phản ánh một kiểu mẫu con người có thật và chiếm vị trí quan trọng trong đời sống dân tộc Nga, vừa thể hiện lí tưởng thẩm mĩ, lí tưởng nhân văn và tôn giáo của nhà văn trong thể thống nhất khăng khít.

Nét đầu tiên khiến ta để ý ở vị tu sĩ đắc đạo cao tuổi và rất lịch lãm, rất hiểu biết con người này là thái độ tin yêu cuộc sống. Bằng nhiều chi tiết chọn lọc, tác giả làm nổi rõ tính tươi sáng của tình yêu cuộc sống không bẩm sinh mà là kết quả của một quá trình tự tu luyện rất dài lâu ấy. Nhà ở đơn sơ, mộc mạc của Zosima trồng nhiều hoa, từ tận ngõ vào. Mặc dù rất ốm yếu và đã kiệt sức, ông luôn luôn tươi cười, niềm nở và ân cần với mọi người. Zosima không hề rao giảng một triết lí khổ hạnh, ngược lại ông luôn luôn khẳng định : “Con người sinh ra để được hạnh phúc, và ai hạnh phục hoàn toàn, người ấy hoàn toàn xứng đáng được nói với mình : "Ta đã thực hiện giáo huấn của Chúa Trời trên mặt đất này". Tất cả những con người trung chính, tất cả các vị thánh hiền, tất cả các vị thánh tuẫn đạo đều hạnh phúc”.

Zosima thương yêu con người bằng “tình yêu cần mẫn” mà ông đối lập với “tình yêu mơ mộng”. Tình yêu cần mẫn tỉnh táo và tinh nhạy. Nó không nuôi dưỡng ảo tưởng và ảo vọng, không đòi hỏi ở con người những kì công hào nhoáng, không chờ đợi ở cuộc đời những biến đổi mầu nhiệm, nhưng nó làm việc không biết mệt mỏi và chán nản để gìn giữ và gia tăng từng tí cái thiện, cái đẹp, giảm bớt và ngăn ngừa từng tí cái ác, cái xấu xa tội lỗi. Cha trưởng lão Zosima dạy thế hệ trẻ : “Hãy yêu toàn bộ vật tạo của Chúa, cả tổng thể và từng hạt cát. Yêu từng tờ lá, từng tia sáng của Thượng đế. Yêu loài vật, yêu cỏ cây, yêu mọi vật. Bạn sẽ yêu từng vật và sẽ thấu hiểu bí nhiệm của Thượng đế trong vạn vật. Đã thấu hiểu một lần, bạn sẽ tiếp tục tìm hiểu nó không mệt mỏi, từng ngày từng giờ. Và cuối cùng, bạn sẽ yêu cả thế giới bằng một tình yêu đại đồng, tình yêu của cả vũ trụ”. Đức tin của cha Zosima, như ta thấy, không giáo điều, không chuyên biệt, nó có nội dung gần gũi với các nền tôn giáo lớn khác của cả phương Tây lẫn phương Đông. Và cũng thế, học thuyết về tình yêu thăng thượng mà Zosima truyền giảng chứa đựng những chân lí minh triết không thuộc riêng đạo Kitô, mà là của toàn thể loài người.

Cha Zosima trước khi qua đời khuyên cậu học trò Aliosha Karamazov hãy rời bỏ tu viện, trở về với đời thường, cố gắng “đắc đạo” trong cuộc sống thế tục : “Cuộc đời sẽ mang lại cho con nhiều nỗi bất hạnh, nhưng con sẽ hạnh phúc chính vì chúng và sẽ cảm tạ cuộc đời và khiến những người khác cũng cảm tạ - đó là cái quan trọng nhất”. Và ở cuối tiểu thuyết, ta thấy Aliosha bắt đầu sự nghiệp cuộc đời bằng việc tập hợp xung quanh mình một số tâm hồn niên thiếu, đặt nền móng cho một hội hữu ái mới, các thành viên của nó gắn bó với nhau bằng tình yêu đối với một người bạn chung mà cái chết đã cướp đi của họ. Cái hội hữu ái còn manh nha ấy có ý nghĩa tượng trưng : nó là nguyên mẫu thu nhỏ của xã hội loài người mà tư tưởng nhà văn hướng tới. Những dòng chữ cuối cùng của tác phẩm tiểu thuyết cuối cùng của Dostoievski diễn đạt ý nguyện cao nhất của ông : sự phục sinh của toàn thể loài người cho một cuộc sống tận thiện tận mĩ bất tử.

(Còn nữa)
Giáo sư Phạm Vĩnh Cư
Theo Vietimes

http://www.thvl.vn/?id_pnewsv=13251&lg=vn&start=215

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cám ơn bạn đã đọc bài viết. bạn có nhận xét gì về bài viết và quan điểm của bạn hãy để lại vài lời chia sẻ cùng mọi người. Xin lưu ý bạn, các nhận xét không có tính góp ý xây dựng sẽ bị xoá ngay. Các nội dung gõ bằng tiếng Việt, có dấu rõ ràng sẽ không làm người khác hiểu lầm. Xin trân trọng cảm ơn bạn đã ghé thăm blog.Chúa ban phước cho bạn!