Thứ Sáu, 19 tháng 6, 2009

Bí Chú Khảo Cổ: Những truyện tích của xứ Ba-by-lôn về công cuộc sáng tạo

Những năm gần đây, trong đống di tích của các thành Ba-by-lôn, Ni-ni-ve, Nipput và Ashur, người ta đã tìm thấy nhiều bản ca về công cuộc sáng tạo, dưới nhiều hình thức, ghi trên các tấm bảng lưu hành từ trước thời Áp-ra-ham, giống hệt như "Bài ca Sáng Tạo" trong sách Sáng thế ký.


Có "bảy tấm bảng" (hoặc thời kỳ) về công cuộc sáng tạo: "Ban đầu" có một "vực sâu nguyên thủy," có "những nước hỗn loạn" gọi là "vực." Các thần đã "tạo thành muôn vật," đã làm ra "khoảng không ở trên và khoảng không ở dưới," đã "lập vững các từng trời và trái đất." Ngày thứ tư, các thần đã "đặt những ngôi sao đúng chỗ," đã "làm cho cỏ xanh mọc lên," đã "dựng nên loài thú ngoài đồng, gia súc và mọi vật sống." Đến ngày thứ sáu, các thần "làm nên người bằng bụi đất; người trở nên loài sống; người và vợ ở chung, kết bạn với nhau; một cái vườn là nơi họ ở, và họ chẳng biết đến y phục." Ngày thứ "bảy" được chỉ định làm "ngày thánh," và "có lịnh phải ngừng mọi công việc."
Những truyện tích sáng tạo của người Ba-by-lôn và người A-si-ri nầy đều thiên về thuyết đa thần quá đáng. Nhưng vì có rất nhiều điểm giống như truyện tích trong sách Sáng thế ký, nên dường như cả hai truyện có cùng một nguồn. Điều nầy há chẳng chứng tỏ rằng một vài ý tưởng của sách Sáng thế ký đã in sâu trong trí nhớ của những người thượng cổ ở trên mặt đất, sao? rằng các nhơn chủng, một khi tách khỏi dòng giống lựa chọn của Đức Chúa Trời và sa xuống vòng thờ lạy hình tượng, vẫn thọ hưởng và lưu truyền di phẩm của một chơn lý mà họ đã đem đồng hóa với nền văn hóa quốc gia của mình, sao? Những truyền thoại đại bại nầy há chẳng làm chứng cho cái thực sự rằng đã có một nguyên bổn từ Đức Chúa Trời mà ra, sao?

Bí Chú Khảo Cổ: Nhứt thần luận nguyên thủy
Kinh thánh trình bày rằng loài người phát nguyên với lòng tin tưởng Nơi Một Đức Chúa Trời Duy Nhất, rằng sự thờ lạy hình tượng theo thuyết đa thần về sau mới bành trướng. Đó là trái hẳn với lý thuyết kim thời rằng ý niệm về một Đức Chúa Trời duy nhứt đã lần lần phát triển từ bái vật giáo. Mới đây, quan điểm của Kinh Thánh đã được khảo cổ học xác nhận. Tấn sĩ Stephen Langdon, thuộc Đại học đường Oxford, đã nhận thấy những bi văn tối cổ của xứ Ba-by-lôn nêu lên rằng tôn giáo đầu tiên của loài người là tin nơi một Đức Chúa Trời duy nhứt, rồi từ dó mới mau lẹ sa xuống chủ nghĩa đa thần và sự thờ lạy hình tượng(1).
Huân tước Flinders Petrie nói rằng tôn giáo nguyên thủy của Ai-cập là tôn giáo độc thần.
Năm 1898, Sayce báo cáo rằng trên ba tấm bảng của Anh quốc Bảo tàng viện, về thời vua Hammurabi, ông đã khám phá được mấy chữ: "Jahwe (Giê-hô-va) là Đức Chúa Trời."
Mới đây, nhiều nhà nhơn loại học trứ danh đã báo cáo rằng giữa vòng các chủng tộc thượng cổ, đã có sự tín ngưỡng phổ thông nơi Đức Chúa Trời Cao cả độc nhứt vô nhị(2).

"Gốc tích trời và đất " (SaSt 2:4-4:26)
Mấy đoạn nầy thường khi gọi là "truyện tích thứ hai" về sự sáng tạo. Thoạt đầu có lời nhắc đến tình trạng hiu quạnh của trái đất (2:5, 6), rất ứng hợp với phần đầu "ngày thứ ba" của "truyện tích thứ nhứt" (1:9, 10) rồi tới mấy chi tiết mà truyện tích thứ nhứt bỏ sót; đoạn, bắt đầu kể sự sa ngã của loài người. Truyện tích nầy có tánh chất bổ túc, chớ không mâu thuẫn. Những chi tiết phụ thêm thì chẳng phải là mâu thuẫn đâu.
Ai là tác giả nguyên thủy của tài liệu nầy? Nó chuyển truyện tích xuống tới thế hệ thứ 6 của dòng dõi Ca-in (4:17-22), và kết thúc trong lúc A-đam còn sống (ông sống đến tận thế hệ thứ 8 của dòng dõi Sết -- 5:4-25). Như vậy, mọi biến cố trong tài liệu nầy đã xảy ra trong đời A-đam. Nếu chữ viết chưa đặt ra khi A-đam còn sống, thì ông há chẳng có thể thuật đi thuật lại mọi sự nầy trong chốn gia đình, đến nỗi ít ra đại ý của nó in hình trong trí óc người ta cho tới lúc đặt chữ viết, sao? Môi-se há chẳng có thể ghi chép đại khái truyện tích loài người sa ngã theo chính lời A-đam đã kể, sao?

2:4-17 -- Vườn Ê-đen
Trong đoạn 1, Đấng Tạo Hóa được xưng là Đức Chúa Trời (Elohim ), tức là thông danh (nom générique ) của Đấng Cao Cả. Đây lại xưng Ngài là "Giê-hô-va Đức Chúa Trời" (Jehovah Elohim ), tức là biệt danh của Ngài. Đó là bước thứ nhứt trong phương thức dài dặc của Đức Chúa Trời tự khải thị.
"Chưa có mưa, song có hơi nước." Điều nầy chắc có nghĩa rằng trong một thời gian, trước khi có mưa, trái đất đã được nhuần tưới bằng những lớp sương mù dày dặc, vì lúc ấy mặt địa cầu còn nóng lắm, do đó hơi nước rất đặc, đến nỗi những giọt mưa mát mẻ ở vành ngoài của các đám mây cũng lại biến thành hơi nước trước khi xuống tới mặt đất.
"Giê-hô-va Đức Chúa Trời lập một cảnh vườn" (câu 8). Về vị trí, xin xem trang 63.
"Cây sự sống" (câu 9, 3:29) có lẽ thật là món ăn để được bất tử, tỏ ra sự bất tử của chúng ta tùy thuộc một cái gì ở bên ngoài ta. Cây nầy lại sẽ dành cho những ai đã giặt áo mình trong Huyết Chiên Con (KhKh 2:7, 22:2, 14).
"Cây biết điều thiện và điều ác" (9, 17) thì "ăn ngon, lại đẹp mắt và quí vì để mở trí khôn" (SaSt 3:6). Dầu tánh chất của cây nầy thật là gì đi nữa, -- là một cây thật, hay là hình bóng hoặc tượng trưng, -- nhưng ít ra một phần yếu tố của tội lỗi A-đam và Ê-va cũng là điều nầy: Chuyển quyền kiểm soát đời mình từ Đức Chúa Trời qua chính mình. Đức Chúa Trời đã phán bảo họ đại khái rằng họ có quyền làm bất cứ điều chi mình muốn. Trừ Ra một điều. Đó là thử xem họ có vâng lời Ngài hay không? Đang khi họ tự chế, thì Đức Chúa Trời là Chủ của họ. Một khi họ bất kể mạng lịnh của Đức Chúa Trời mà làm điều cấm duy nhứt đó, thì họ tự tôn mình làm chủ mình. Đó há chẳng phải yếu tố của tội lỗi loài người sao? Tức là tự nhận điều khiển đời mình cho hợp theo ý mình. Từ ban đầu, Đức Chúa Trời định cho loài người sống đời đời, và điều kiện duy nhứt là phải vâng lời Ngài. Loài người đã thất bại. Bấy giờ bắt đầu phương thức cứu chuộc dài dặc nhưng chậm chạp, bởi một Cứu Chúa, nhờ Ngài mà loài người có thể được lại địa vị đã mất. Sự sống tuyệt đối chỉ có trong sự vâng lời tuyệt đối.

2:18-25 -- Sự dựng nên người nữ
1:27 đã tuyên bố rằng người được dựng nên có nam, có nữ. Tới đây, cách dựng nên người nữ được kể lại đầy đủ hơn. Tại đây, lúc khởi đầu của loài người và của Sách Thánh, nguyên thủy thiên thượng và tánh chất thánh khiết của hôn nhơn đã được xác định: Một người nam, một người nữ, một thịt (câu 24).
Kinh Thánh hình dung hôn nhơn như là đạo nghĩa trần gian đối chiếu với mối liên quan giữa Đấng Christ và Hội Thánh (Eph Ep 5:25-32, KhKh 19:7, 21:2-9). Hội Thánh được xưng là "Tân Phụ" của Đấng Christ. Tân phụ của A-đam được làm nên bởi sườn ông đang khi ông ngủ (câu 21, 22). Đó có thể là bức tranh nguyên thủy về Hội Thánh: Tân phụ của Đấng Christ, được tạo nên bởi "huyết và nước" từ cạnh sườn Đấng Christ chảy ra, đang khi Ngài "ngủ" trên Thập tự giá (GiGa 19:34, IGi1Ga 5:6, 8).
"Trần truồng, mà chẳng hổ thẹn" (câu 25). Có lẽ họ được bao phủ bằng sự sáng cao khiết của Đức Chúa Trời, cũng như Đức Chúa Jêsus khi Ngài hóa hình vậy (Mac Mc 9:3). Sự sáng nầy đã biến mất khi tội lỗi xen vào; song một ngày kia, nó lại sẽ bao phủ những người được cứu chuộc (KhKh 3:4, 21:23). Theo chỗ ta biết, trong mọi loài Đức Chúa Trời dựng nên, chỉ có loài người mặc quần áo, đó là dấu hiệu tỏ ra bổn tánh tội lỗi của chúng ta và là chứng cớ thầm lặng về chơn lý nguyên thủy.

Vị trí của vườn Ê-đen
Vườn ở trên bờ sông Ơ-phơ-rát và sông Ti-gơ-rơ, tại nơi hai sông nầy gặp sông Bi-sôn và sông Ghi-hôn (SaSt 2:10-14). Chưa chỉ đúng được vị trí sông Bi-sôn và sông Ghi-hôn. Sông Ơ-phơ-rát và sông Ti-gơ-rơ phát nguyên từ miền núi Causase, ở Tây nam Á Châu, chảy về phía Đông nam, rồi đổ vào vịnh Ba-tư, là một vũng của Ấn độ dương.
Vậy, ta có thể nói rằng loài người đã được dựng nên và đặt trên đất, vào khoảng gần giữa mặt địa cầu; vì khu vực sông Ơ-phơ-rát và núi Caucase ở gần trung tâm của đông bán cầu, vốn rộng lớn hơn tây bán cầu.
Nói chung, các nhà nhơn chủng học đều nhận xét rằng khu vực nầy là nơi phát tích mọi chủng tộc của loài người. Từ khu vực nầy sản xuất con bò, dê, chiên, ngựa, heo, chó, và phần nhiều gia súc. Tại đây cũng phát sanh trái táo, đào, lê, mận, anh đào, mộc qua, dâu, phúc bồn tử, nho, ô-li-ve, vả, chà là, hột giẻ, lúa mì, lúa mạch, lúa kiều mạch, đậu, cây gai, rau dền, củ cải, hành, và hầu hết trái cây cùng rau cỏ của chúng ta. Đó là nơi loài người phát xuất.

Xứ Ba-by-lôn
Một số người tưởng rằng vùng cao nguyên xứ Ạc-mê-ni, nơi nguồn sông Ơ-phơ-rát và sông Ti-gơ-rơ (có lẽ thời ấy chưa cao hơn mặt biển nhiều như ngày nay), có thể là vị trí đặc biệt của vườn Ê-đen. Dầu vậy, theo truyền thoại và theo phần đông người đồng ý, thì vị trí của vườn Ê-đen chính là xứ Ba-by-lôn, gần cửa sông Ơ-phơ-rát. "Edin " là tên thời thượng cổ của đồng bằng Ba-by-lôn.
Hiện nay, sông Ơ-phơ-rát và sông Ti-gơ-rơ gặp nhau chừng 100 dặm phía trên vịnh Ba-tư. Đương thời Áp-ra-ham, vịnh nầy ăn sâu vào địa lục đến tận U-rơ, và hai sông nầy đổ vào vịnh bởi nhiều nhánh riêng biệt, theo như những dòng chấm trên bản đồ ở trang 64 chỉ tỏ. Cả đồng bằng Ba-by-lôn do phù sa của hai con sông nầy kết thành. Lòng hai con sông nầy thường hay đổi chiều.
Có lẽ đương thời A-đam, hai sông nầy hợp nhau một quãng, rồi lại chia ra trước khi đổ vào vịnh Ba-tư.
Vườn Ê-đen ở trên dòng sông hợp nhứt, khoảng giữa chỗ hợp lại và chỗ chia ra, và như vậy, chia thành bốn "ngả"(2) (2:10). Hai con sông cứ chảy tới bờ phía Đông và bờ phía Tây của vịnh Ba-tư, và được gọi là Bi-sôn và Ghi-hôn. Trên những bi văn thượng cổ, vịnh Ba-tư được gọi là một "con sông." Thủy triều của nó lên cao chừng 3 thước, làm cho những dòng sông nầy nhô lên, trông giống như "đầu" người vậy.

Thánh Kinh lược khảo

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cám ơn bạn đã đọc bài viết. bạn có nhận xét gì về bài viết và quan điểm của bạn hãy để lại vài lời chia sẻ cùng mọi người. Xin lưu ý bạn, các nhận xét không có tính góp ý xây dựng sẽ bị xoá ngay. Các nội dung gõ bằng tiếng Việt, có dấu rõ ràng sẽ không làm người khác hiểu lầm. Xin trân trọng cảm ơn bạn đã ghé thăm blog.Chúa ban phước cho bạn!