Nguyễn Hoàng Đức
Ý hướng tính văn chương, NXB Văn hóa dân tộc
6. HỮU THỂ LUẬN VỀ THƯỢNG ĐẾ
Đến đây, coi như chúng ta đã đặt xong nền tảng cho vấn đề Thượng Đế. Nó có thể quá cồng kềnh! Xong đó là một việc làm không thể tránh khỏi, bởi lẽ Thượng Đế với cõi bao dung của Ngài sẽ vượt khỏi tầm vóc của mọi nền móng đặt cho Ngài. Và hơn nữa, chẳng có nền móng nào dù đồ sộ đến đâu có thể sánh với chỗ ngồi bé mọn nhất của Ngài. Tuy nhiên đứng trước vấn đề Thượng Đế mênh mông và siêu việt đến ngộp thở, chúng ta buộc phải có một thái độ sửa soạn một cách công phu bề thế nhất. Đó cũng là một hướng đi chính đáng, bởi như người ta thường nói, chuẩn bị tốt là đã thành công phân nửa rồi. ...(Click Tiêu đề để đọc tiếp)
Chúng ta dễ thừa nhận với nhau một thực tại rằng: có vấn đề Thượng Đế. Và bây giờ chúng ta hãy giải quyết vấn đề đó bằng cách kiến giải để chấp nhận hay phi tang nó. Để các bạn tiện theo dõi hơn, tôi xin liệt kê ra đây các chặng đường cuộc hành trình khám phá Thượng Đế. Để giải đáp tra hỏi có Thượng Đế không, tôi sẽ lần lượt đi qua bốn giai đoạn sau:
1- Hữu thể luận về Thượng Đế
2- Tất yếu tâm linh và tín điều
3- Tất yếu thực tại và lý tưởng
4- Cơn khát của tâm hồn
1- HỮU THỂ LUẬN
Malebranche nói: “Thượng Đế là ánh sáng duy nhất của chúng ta”.
Khi tôi nói với các bạn rằng hãy học theo gương của Malebranche, hãy ngửa cổ để uống lấy ánh dương sáng láng của Thượng Đế, chắc hẳn bạn phải phẫn uất lên và và nói: Tôi không thấy thứ ánh sáng đó, vả lại anh định lừa phỉnh tôi à? Thay vì phải chứng minh có Thượng Đế, anh lại tôn vinh Ngài lên ngai vàng dấu mặt của Ngài, và anh bảo chúng tôi hãy uống lấy nguồn ánh sáng không có của Ngài. Nếu các bạn có kêu lên như vậy là hoàn toàn hợp lý, và ở địa vị các bạn tôi cũng réo lên như vậy.
Pascal nói: “Chúa là Đấng ẩn dấu” (Tu es verus absconditus). Hiển nhiên Chúa là Đấng dấu mặt, và chẳng lẽ chúng ta lại chịu bó tay trước việc buộc Ngài, dụ dỗ Ngài, hoặc nài nỉ van xin Ngài xuất hiện lấy một lần. Ngày nay với những ống kính viễn vọng lia quét đến tận các xó xỉnh của bầu trời, kính hiển vi có thể nhìn rõ tâm can của từng chú siêu vi trùng, rồi máy điện toán, máy điện phân, máy vi tính… và hàng trăm dụng cụ tinh xảo đã từng bắt hằng hà sa số những chất khí uẩn khuất dấu mặt trong không gian phải hiện lên, chẳng lẽ lại phải chịu hàng phục trò ú tim đùa dai của Chúa? Liệu Chúa có đang run rẩy trong góc trốn của Ngài?
Triết gia Hamilton nói: “Thượng Đế là phi điều kiện tính, bởi Thượng Đế là bất khả tri” (Emile Brehier ‘Histoire de la Philosophie’, France 1953, tr.62).
Liệu Chúa có mệt mỏi bởi chính sự im hơi lặng tiếng quá lâu của Ngài? Và liệu Ngài còn kiên trì được bao lâu nữa khi các phương tiện khoa học đang chĩa mũi dùi vào tất cả các ngóc ngách mà Ngài ẩn trốn? Hoặc giả Ngài sẽ nín tiếng và dấu mặt đến tận cùng vĩnh cửu mà chẳng hề thấy khó chịu chút nào? Sẽ như thế đấy! Bởi Ngài là bí nhiệm, là thinh lặng vô biên. Thượng Đế không bao giờ là một vật thể khiến ta có thể buộc Ngài phải xuất hiện.
Kant nói: “Chỉ có vật thể khả hữu tồn tại trong không gian và thời gian, và vì vậy không thể phác họa lên bất cứ nhận thức nào về Ngài.
Nhưng hiển nhiên con người có thể tạo ra ý nghĩa về Chúa. Tâm trí có thể hình thành một ý nghĩ như vậy bất cứ lúc nào nó muốn tìm kiếm nguyên nhân của những nguyên nhân vì nguyên tắc hợp nhất tối hậu của tất cả hữu thể và mọi suy tư.
Có thể tạo ra mọi ý nghĩ về Chúa, nhưng không có bất kỳ cách thức nào để chứng tỏ rằng có một Thiên Chúa.” (Sdd ‘Encyclopedia New Catholic’, A1 – tr.207).
Thượng Đế không hiện tồn trong không gian và thời gian thì làm sao con người có thể nhìn nhận được Ngài khi mệnh danh cái hữu hạn nhỏ bé của mình? Một cái ca có đong được nước của đại dương không? Nếu Thượng Đế là bất khả tri và khi con người không có khả năng chứng nghiệm được Thượng Đế thì tốn giấy mực để bàn về sự bất lực vu vơ ấy làm gì? Nhưng như Kant nói, chúng ta có thể tạo ra ý nghĩa về Thượng Đế. Bởi vậy con đường khách quan duy nhất đầu tiên là luận về Thượng Đế qua ngả suy tư hữu thể luận.
Chúng ta hãy khởi sự từ mình, đó là khởi điểm chắc chắn nhất mà chúng ta xác thực, như Descartes nói: “Tôi có đây tôi hiện hữu”. Và bằng mọi quan năng trong thời gian giữa trời đất chúng ta bó buộc phải thừa nhận hiện thực thứ hai: chúng ta hữu hạn, điều này hoàn toàn có thể đong đo được bằng những chuẩn mực lý thể như trọng lượng, thị lực, thính lực…
Con người là hữu hạn, chúng ta buộc phải thừa nhận điều này! Nhưng chúng ta hãy đặt câu hỏi: nhân danh cái gì và dựa vào đâu để nói con người là hữu hạn? Câu hỏi này sẽ dẫn chúng ta đến một câu hỏi hay một tương quan rằng: nhân danh cái vô hạn, dựa vào cái vô hạn, so với cái vô hạn, chúng ta là hữu hạn.
Cũng như thế, chúng ta hãy đặt một loạt câu hỏi như: kiếp sống của chúng ta có vĩnh cửu? Con người có toàn hảo? Con người có tuyệt đối? Và chúng ta sẽ rút ra một suy luận rằng: cái vô hạn, cái tuyệt đối, cái toàn hảo, cái vĩnh cửu, cái đó không thuộc con người hay chính con người. Và toàn bộ một bao dung vô lượng thể chứa đựng những cái đó là Đấng được gọi là Thượng Đế.
Tuy nhiên Thượng Đế mà chúng ta dò tìm không có tên gọi là Jesus, Boudha, hay Mohamed, mà là Đấng tuyệt đối siêu việt thể, một Thượng Đế bao trùm lên vạn vật. Chúng ta hãy suy ngẫm Thượng Đế của thánh Aquinas qua suy niệm của ông:
“Một đằng là hữu thể toàn hảo, tự tại, tất yếu và vô hạn, đằng kia là hữu thể bộ phận, phụ thuộc, ngẫu nhiên và giới hạn”.
Bạn là hữu thể bộ phận hay toàn hảo? Bạn phụ thuộc hay tự tại? Bạn ngẫu nhiên hay tất yếu? Bạn giới hạn hay vô hạn?
7. HỮU THỂ LUẬN VỀ THƯỢNG ĐẾ II
Về hình thái suy luận dựa trên tương quan tất định này, Descartes đã nêu lên một chứng dụ bất hủ, ông cho rằng: Một góc tam giác tất yếu phải liên quan đến hai góc kia, và nó mật thiết đến mức, nếu không có hai góc kia thì cái góc này không được gọi tên và xem xét như là “một góc tam giác”. Bạn hãy tự lắp đặt cơ thể của mình vào một góc tam giác và bạn sẽ thấy bạn thiết yếu liên quan với những góc khác của vũ trụ ra sao. Sau khi suy tưởng ra Thượng Đế từ cái “tôi tư duy” (cogito) của mình, Descartes đã quả quyết: “Thượng Đế đối với tôi có nghĩa là một bản thể vô hạn, vĩnh cửu, bất biến và độc lập, và nhờ bản thể đó mà tôi cũng như sự vật được sinh ra.”
Chúng ta hãy lưu ý cách gọi tên Thượng Đế của Descartes “Bản thể vô hạn”, đây cũng là một nẻo khác để tìm cách chứng minh sự hiện hữu của Thượng Đế. Về điểm này có một số triết gia cho rằng mọi sự vật có thể biến dịch nhưng bản thể của nó bất dịch. Giả sử như những dòng nước luôn luôn chảy chỗ trũng, dòng nước đó có thể tràn bờ vào mùa lũ cũng có thể khô cạn vào mùa hạ, nhưng cái tính chảy chỗ trũng của nó chẳng bao giờ biến đổi. Tính của vật thể bất dịch vĩnh cửu là nhờ cái bản thể duy trì vĩnh hằng nào - nếu không có bản thể vô hạn của Thượng Đế? Bởi vậy Descartes gọi Thượng Đế như một danh xưng khác mang một bản thể vô hạn, vĩnh cửu, bất biến.
Spinoza nói: “Bản tính là vĩnh cửu và vô hạn. Có thể nói bản tính chẳng là gì khác ngoài Thiên chúa bởi lẽ Thiên Chúa là một hữu thể vô hạn tuyệt đối. Ngài mang sẵn thuộc tính mà ở đó mỗi sự vật biểu lộ yếu tính vĩnh cửu và vô hạn” (Sdd ‘La Philosophie Moderne’, tr.104).
Từ căn cứ suy luận này, một số nhà khoa học lý thuyết còn giả định rằng: hệ mặt trời của chúng ta, với trái đất quay đều đặn quanh mặt trời 365 ngày một năm, cũng như mặt trăng thường kỳ soắn xuýt tỏ tình bên trái đất là phải do một mãnh lực âm thâm nào đó duy trì sự vận động đều đặn này. Bởi nếu không có sự duy trì đó, thì ai là người tiếp nguyên liệu cho lòng đất để nó tự xoay quanh lấy mình? Và nếu không cần ai điều khiển, thì ai bắt được vật thể không động cỡn lên lúc chạy thế này – lúc nghỉ thế kia? Không! Tất cả vũ trụ vẫn đang vận động thường hằng và điều độ. Chúng ta hãy đặt câu hỏi thật quyết liệt: tự thân vật thể - chúng có biết đến đức hạnh điều độ không?
Thượng Đế là ai? Ngài có phải Đấng mặc khải mà chẳng bao giờ minh nhiên? Bạn có bao giờ đi qua những phi trường hay khí tượng, ở đó người ta dùng những ống vải hình trụ buộc trên đỉnh các cây cột để đo hướng gió, gió thổi về hướng nào thì ống vải bay về hướng đó, hướng gió thay đổi thì ống vải cũng đổi chiều bay. Tại sao người ta phải làm vậy? Vì mắt con người không nhìn thấy gió, nó buộc phải nhìn qua một miếng vải chuyển động minh nhiên trong những ngọn gió mặc khải diện mạo của mình ở đầy mặt đất. Bởi tính tất yếu của một sức mạnh tiềm ẩn đằng sau hiện tượng, hai nhà triết học Leibniz và Berkeley đã cùng nhận định: “Đằng sau thế giới hiện tượng là một tinh thần vô hạn, nó vừa là cơ cấu hạ tầng vừa là Đấng sáng tạo vũ trụ” (Sdd ‘Four Philosophies’, tr.14).
Chúng ta có chịu thừa nhận đằng sau hiện tượng là một sức mạnh nào đó thúc đẩy hiện tượng có mặt không? Cả Leibniz và Berkeley đều đã gọi tên Đấng chí tôn bằng cái tên “Tinh thần vô hạn”, còn Hegel đã đuổi theo Thượng Đế bằng một ý chí tuyệt đối. Tất cả lãnh vực tinh thần ấy, ngay cả tinh thần của riêng chúng ta thôi cũng trở thành miền đất bất khả khám phá. Chúng ta hãy nghe Freud, ông hoàng phân tâm học lọc lõi thú nhận: Tôi nghiên cứu ý thức, tôi phát hiện ra trước ý thức có tiền ý thức, ở đó tôi có thể hiểu đôi chút về nó; rồi trước tiền ý thức, tôi phát hiện ra cõi vô thức, tại đây tôi phải thừa nhận rằng con người mù tịt và không thể nào hiểu biết về nó.
Dẫn cõi ý thức mờ mịt của con người ra, tôi muốn đi đến một suy luận rằng: cõi ý thức hữu hạn của con người đã vậy, còn cái ý thức vô hạn của Chúa – cái ý thức bay đi khắp hành tinh này thì chúng ta làm sao hiểu được. Song khả dĩ Thượng Đế vẫn giành cho chúng ta một cách hiểu nào đó, khi một giọt nước chảy trong dòng sông, nó sẽ hân hạnh tham dự vào cuộc biến dịch của dòng sông, và nó làng màng thấu hiểu: dòng sông đó có. Còn tinh thần của bạn? Khi bạn thả cho suy tưởng bay đến tận các vì sao, thì liệu nó có gia nhập vào một tinh thần vũ trụ vô lượng và toàn hảo hay không?
Trong đời sống chúng ta thường gặp những câu hỏi trân trối như: anh có nhìn thấy Thượng Đế không? Câu hỏi đó nhân danh cái gì, nó nhân danh đôi mắt! Còn nghe thấy, cảm thấy, nghĩ thấy thì sao? Điện từ trường có trong không gian nhưng chúng ta có nhìn thấy nó không? Song câu hỏi có vẻ đang chọc tức tất cả những trí năng có khuynh hướng siêu việt, vì nó có vẻ tâm tầm quá. Vậy thì, thưa bạn, bạn đừng hỏi tôi có nhìn thấy Thiên Chúa không? Bởi Thiên Chúa không có diện mạo! Bạn đừng hỏi tôi có ngửi thấy Thiên Chúa không? Vì Thiên Chúa không có mùi! Bạn đừng hỏi tôi có nghe thấy Thiên Chúa không? Vì Thiên Chúa không phải là âm thanh! Bạn đừng hỏi tôi có sờ thấy Thiên Chúa không? Vì Thiên Chúa không da thịt! Bạn đừng hỏi tôi có nếm thấy Thiên Chúa không… Bạn hãy nghe câu nói sau đây của Lagneau: “Tin rằng Thượng Đế có theo nghĩa thông tục tức là xúc phạm tới Thượng Đế, là kéo Thượng Đế xuống hàng nhân vật thế gian.”
8. TÂM LINH VÀ TÍN ĐIỀU
Ở phần đặt vấn đề Thượng Đế, tôi có đưa ra mối tương quan mật thiết giữa linh hồn và Thượng Đế, song để bám sát cuộc hành trình lần về cội nguồn theo đúng truyền thống của học thuật, chúng ta buộc phải xem xét tỉ mỉ tiền tương quan này, đó là : có linh hồn không? Và linh hồn là cái gì? Tôi xin bắt đầu bằng một câu trong Phúc Âm: “Nước trời không phải ở thế gian này… nhưng nước trời bắt đầu từ thế gian này”.
Câu nói này có nghĩa nước của Thiên Chúa ở trên trời nhưng lại cắm rễ từ thế gian này. Nghĩa là thế gian là cơ thể, là nền tảng của nước Chúa, giống như cơ thể là nơi trú ngụ của linh hồn vô biên vô lượng. Thánh Augustine nói: “Cơ thể là sự nghiệp đáng chiêm ngưỡng của Chúa, và cấu năng của nó chỉ ra rằng nó được sinh ra để làm kẻ nô bộc cho một linh hồn khả trí” ( Sdd ‘La Philosophie Moderne’, tr.36).
Tuy nhiên, chúng ta chưa thể chấp nhận linh hồn qua ngả Phúc Âm, bởi lẽ như những kẻ đang trải nghiệm Chúa bằng một quan năng sáng suốt, chúng ta không thể lần theo nguồn mạch mà ở đó Chúa đã án ngữ tất định. Chúng ta hãy xem Aristote bàn về linh hồn: “Linh hồn là một thực tại nền tảng của một cơ thể cấu thành tự nhiên”. Ông còn nói: “Linh hồn là một cách thức tất yếu chứa trong mọi vật thể”.
Tại sao linh hồn lại tất yếu ? Để trả lời câu hỏi này chúng ta hãy tham khảo ý tưởng của Platon, có lẽ theo ông thì cái nguyên lý hợp lý trong vật thể, cái khiến vật thể mãi mãi là nó, giống như một tiềm năng bên trong khiến nước cứ chảy miên viễn đời đời, đó là linh hồn. Ông nói: “Phần phi lý, giống như cơ thể chết, trong khi đó nguyên lý lại bất tử - đó là linh hồn” (Sdd ‘Encyclopedia New Catholic’, P11, tr.432).
Để dễ hiểu hơn cả chúng ta hãy xem xét quan niệm sau đây của Spinoza: “Linh hồn là ý tưởng của thân xác”.
Đó là suy niệm của các tiền bối về linh hồn. Về phần mình chúng ta cũng kinh nghiệm được rằng: con người không chỉ là thể xác. Khi con người biết suy tư và quyết định trước khi hành động, nghĩa là nó phải có một tâm trí! Và con người biết mộng mơ hay tưởng tượng, nghĩa là nó phải có một tâm hồn! Tâm trí là gì? Có phải là khả năng soi xét xuất phát từ nơi bạn! Tâm hồn là gì? Có phải là khả năng viễn du xuất phát từ tinh thần bạn! Còn khả năng mà toàn bộ tinh thần của bạn hướng về cõi siêu việt hấp thụ hoặc hút lấy nỗi sợ hãi cũng như niềm thành kính là cái gì? Đó có phải là linh hồn? Tuy nhiên mấy ngả mà tinh thần rẽ qua như tâm trí, tâm hồn, linh hồn dường như là con đường giản lược – phân rẽ của khoa phân tâm học.
Ở đây trong tương quan giữa hai yếu tố thiết yếu của con người chúng ta chỉ nên nhìn nhận vẹn toàn là: thân xác và linh hồn. Mặt khác linh hồn còn tất yếu như là sự nối dài, phóng rọi ra từ các cơ quan thân xác, chẳng hạn như: mắt nhìn thấy những vì sao, tai nghe thấy tiếng động từ xa tít… Theo Descartes thì linh hồn chắc chắn hơn cả thể xác bởi vì ta có thể nghi ngờ về sự có mặt của mình hơn là việc tâm thức đặt câu hỏi: Ta là ai?
Và tâm thức có thể nghi ngờ mọi chuyện, nhưng có việc nghi ngờ ấy là bởi có tâm thức, chứ tự thể xác không biết đặt câu hỏi mà cũng chẳng biết ngờ vực.
Nếu ta không chối nổi việc linh hồn có mặt như thực tại thì ta có khước từ nổi cái mảnh đất mà linh hồn cất cánh bay đến không? Sau khi minh chứng linh hồn là một thực tại tất yếu, thì Descartes đã đi đến một suy luận tất định rằng: Thượng Đế là tất yếu. Bởi lẽ bản tính của linh hồn là suy tưởng, và sự suy tưởng của nó không bay bâng quơ, mà nó nhắm đến vùng trời siêu việt – cái gọi là Thượng Đế.
Có hợp lý không?
Khi chúng ta có đôi mắt, chúng ta sẽ nhìn cái gì? bạn có bao giờ tách được cái nhìn từ đôi mắt với hình ảnh mà chúng đang uống lấy. Và hơn cả thế cái gì chứng tỏ con mắt sáng? Cái nhìn của nó! Cái gì chứng tỏ nó đang nhìn? Vật được nhìn và hướng được nhìn! Bởi vậy đôi mắt chẳng bao giờ tách được ảnh tượng. Còn linh hồn, nó có tách khỏi cõi miền Thượng Đế lúc nào cũng tràn ngập trong lòng nó, vẫy gọi nó, và kéo nó về siêu việt? Kierkegaard khẳng định: “Nước Trời là của tâm hồn”, và ông còn diễn tả “Thượng Đế là một chủ thể, và vì vậy chỉ hiện hữu với chủ thể nội tâm” (sdd ‘Hiện tượng luận về hiện sinh’, tr.55). Theo Kierkegaard thì, chỉ có linh hồn mới được gọi là chủ thể hoặc cái qui định một vật thể có chủ thể, chứ tự vật thể không tự làm nên ông chủ cho mình. Bởi vậy, Thượng Đế là chủ thể sáng thế vũ trụ, Ngài chỉ hiện hữu với chủ thể linh hồn. còn thể xác thì làm sao mà biết được!
Con người là linh hồn! Chúng ta có thể giảm trừ con người của mình sang địa hạt linh hồn như vậy để nhìn nhận chủ thể linh hồn vũ trụ một cách thuần nhất hơn. Và lúc này chúng ta hãy lắng nghe cái hơi thở nhức nhối của đời sống linh hồn: “Cái ngày tốt đẹp nhất là ngày mà linh hồn thấy đói khát” (Scheler).
Và tất nhiên, linh hồn chỉ có thể thỏa mãn cơn khát của mình ở suối nguồn duy nhất: Thượng Đế. Thánh Augustine nói: “Con người bị kẹt giữa vị trí trung gian, nếu bạn có một linh hồn nó sẽ nằm ở giữa, bạn nhìn xuống dưới sẽ thấy cơ thể, bạn ngước nhìn lên trên sẽ thấy Thượng Đế, bạn bị cơ thể kéo xuống nhưng lại được linh hồn nâng lên” (Sdd ‘Encyclopedia New Catholic’, A1, tr.1048)
Con người không chỉ giản lược là cơ thể! Chúng ta lo ăn, lo uống, lo chăm chút cho thể xác, còn linh hồn thì sao, ai chăm chút cho nó? Không! Linh hồn phải có quyền sống tối cao của nó, thậm chí còn quyết tử mạnh mẽ hơn cả thân xác. Trong cuộc đời, chúng ta gặp nhiều người tìm cách cáo chung thân xác của mình khi mà tinh thần họ tuyệt vọng. Ngược lại chẳng mấy khi chúng ta nhìn thấy một người tự tử vì đói khát. Linh hồn sống còn với cơ thể đến mức mà M. Proust đã quả quyết rằng: “Tôi không thể sống được nếu tôi không tin rằng có một trật tự tối cao”.
Trật tự tối cao là gì? Đó có phải mệnh lệnh được phát ra từ chiếc ngai tối thượng của Đấng chí tôn xuống vương quốc siêu việt nơi mọi linh hồn đều tìm đến để phụng hiến, vui hưởng cũng như hái quả làm thức ăn cho mình. Và hơn cả thế, Kierkegaard còn cho rằng, Thượng Đế là nguồn biện chính vô tận cho cuộc hiện sinh yểu mệnh của con người. Con người nhắm đến tính vĩnh cửu của Thượng Đế để lý giải cuộc hiện sinh ngắn ngủi của nó, và cũng để thoát xác vui hưởng sau cái chết. Kierkegaard nói: “Thượng Đế là tối cực của hiện sinh, là chủ thể tối cực biện chính cho tín ngưỡng của con người.”
Chính nhận thức được vai trò của mình trong không gian và thời gian, nên con người mới say khát và cầu nguyện sự toàn hảo và vĩnh cửu. Đó là khát vọng tự thân, bỡi lẽ chỉ có con người mới ý thức được sự vui sống cũng như sự lo chết. Khi ý thức được sự hữu hạn của mình con người khát khao cái vô hạn không có trong kiếp người nhưng đã xuất hiện tất yếu trong ý thức khát vọng của con người. Song dù muốn hay không, con người cũng nhận biết: cái vô hạn không phải là sản phẩm do lòng tham của nó hoảng sợ nghĩ ra khi nhìn thấy nguồn mạch đời sống cạn kiệt dần, mà nó thấy, vũ trụ với không gian vô biên mở ra cùng thời gian vô tận. Không gian và thời gian là vô hạn, chúng bất khả hoại! Đó là sự thật mà con người đã khả tri được trong kiếp hiện sinh ngắn ngủi của mình.
Vậy liệu con người có phải là một tạo vật biết khao khát? Người ta khao khát cái gì? Liệu đây có phải là câu trả lời xác đáng: khao khát cái ở ngoài tầm tay mình. Con tim khao khát tình yêu, có phải nó sẽ tìm cách thổ lộ những lời êm ái dạt dào của nó. Còn khi linh hồn khao khát nó phải làm gì? Còn gì khác hơn, nó còn biết làm gì hơn là cầu nguyện. Bởi thế con người là tín điều của mình, tín điều bày tỏ niềm tin của nó vào sự vĩnh cửu và vô hạn, và đó cũng là vĩnh phúc đời đời không cạn cho cơn khát không ngơi nghỉ của nó. Scheler nói:
“Con người là tạo vật biết cầu nguyện”.
theo http://www.triethoc.com.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Cám ơn bạn đã đọc bài viết. bạn có nhận xét gì về bài viết và quan điểm của bạn hãy để lại vài lời chia sẻ cùng mọi người. Xin lưu ý bạn, các nhận xét không có tính góp ý xây dựng sẽ bị xoá ngay. Các nội dung gõ bằng tiếng Việt, có dấu rõ ràng sẽ không làm người khác hiểu lầm. Xin trân trọng cảm ơn bạn đã ghé thăm blog.Chúa ban phước cho bạn!