Lời Giới Thiệu: Đây là lời chia xẻ của một trong những người lãnh đạo đầu tiên của phong trào Sinh Viên Tin Lành tại Sài-gòn vào thập niên 60, ông Đàm Quang Thuận. Sau khi tin Chúa khoảng một năm ông đã viết lời chia xẻ này, được đăng lần đầu tiên trên báo Hừng Đông, là cơ quan thông tin và truyền giảng của Hội thánh Tin Lành Việt Nam. Đặc điểm của lời chia xẻ này là cách diễn đạt cô đọng, chân thành, trong sáng về một kinh nghiệm quan trọng nhất trong đời ông. Tất cả mọi sự việc nêu lên trong bài chia xẻ xuất hiện như nằm trong một trình tự do bàn tay Đức Chúa Trời sắp đặt; mỗi diễn biến hiển nhiên đóng một vai trò quan trọng trong quyết định đến với Chúa của tác giả.
Chúng tôi mong rằng quí độc giả, nếu đã tin Chúa có cơ hội ôn lại một vài kinh nghiệm thuộc linh của mình qua lời chia xẻ này, nhưng đối với những độc giả còn đứng ngoài niềm tin, lời chia xẻ này có thể là một hướng dẫn rất rõ ràng và thực tế. Nếu một sinh viên 19 tuổi xuất thân từ một gia đình danh gia thế phiệt, tự tin, bằng lòng về mình và cuộc sống của mình, với một tương lai xán lạn, lại được trưởng dưỡng trong một bối cảnh khác với Cơ-đốc giáo, tưởng như là một thành phần ít cần Chúa nhất lại có thể đi đến chỗ khao khát Chúa Giê-xu thì chắc chắn bạn cũng có thể đến với Chúa nếu thật lòng mong muốn. Chúng tôi xin mời bạn đọc câu chuyện đầy ý nghĩa này.
Những việc mà Đức Chúa Trời đã làm cho tôi không có gì đo lường nổi, mỗi khi nghĩ đến thì tôi càng thấy rõ lòng thương yêu vô hạn của Ngài đối với tôi. Đây là lời chia xẻ của tôi, một kẻ đã được Cứu Chúa Giê-xu Christ tìm thấy và tiếp nhận...
Gia đình tôi theo Phật giáo và Khổng giáo, nghĩa là trong nhà thì thờ cúng tổ tiên, ra ngoài thì cúng lễ ở các đền chùa và mấy năm trước đây tôi theo và nhận tất cả những tín ngưỡng của cha mẹ tôi. Đến năm tôi học ban triết lý tú tài thì tôi bỗng nhiên chú ý đến các tôn giáo khác vì trong đáy lòng tôi, tôi cảm thấy là có Đức Chúa Trời, Đấng Tạo Hóa đã sinh ra vũ trụ này và sinh ra tôi. Lòng tôi kháo khát được biết Ngài. Làm thế nào để biết Ngài? - Đó là câu hỏi trong đầu tôi. Phật giáo và Khổng giáo hoặc tránh câu hỏi đó, hoặc không trả lời được, tôi bèn quay sang Cơ-đốc giáo, tuy rằng tôi không ưa đạo này chút nào. Tôi biết Giê-xu Christ là người Á châu, nhưng đối với tôi đạo của Ngài là đạo của người Tây phương không hợp với tâm hồn người Việt. Tôi thấy những lời Kinh Thánh dạy khó tin quá và cũng vì thế tôi bỏ cuộc tìm hiểu các tôn giáo.
Vừa thi đỗ xong, tôi lại được học bổng sang Úc du học nữa, tôi vui sướng quá, tôi thấy đời tôi đầy đủ quá và tự nghĩ rằng: Tôi còn trẻ tuổi, đời tôi còn tươi, tương lai tôi còn đẹp, vậy việc gì tôi phải bận tâm theo một đạo nào. Đạo nào cũng tự nhân loại tạo ra, đạo nào cũng khuyên làm điều lành, tránh việc dữ, cái đó thì tôi cũng thừa hiểu biết, xưa nay tôi vẫn tử tế với mọi người, tôi được chúng bạn quý mến, tôi được cha mẹ thương yêu, và tôi thấy tôi là một người tốt và tôi rất hãnh diện vì bà ngoại tôi thường khen tôi có lòng thương yêu nhân loại.
Mấy tháng đầu trên đất Úc, tôi ở Sydney, thủ đô xứ New South Wales, kinh thành lớn nhất nước Úc. Phần còn nhớ nhà, phần say sưa với cuộc đời mới lạ trên đất khách, tôi không còn thì giờ nghĩ đến tôn giáo và Chúa nữa. Tháng Ba, 1957, tôi xuống Melbourne, thủ đô xứ Victoria, kinh thành của Thế vận hội 1956, để nhập đại học. Còn phải chờ đợi hai tuần nữa mới tới ngày khai giảng, nên tôi nhận lời mời đến giúp trường Summer Institute of Linguistics (Wycliffe Bible Translators.) Trường này chuyên khảo về ngôn ngữ với mục đích là đặt chữ viết cho những tiếng nói chưa có chữ viết tận Phi châu, Nam Mỹ, Tân-ghi-nê v.v... và dịch Kinh Thánh ra tất cả những tiếng trên hoàn cầu. Sau phần học về lý thuyết, những sinh viên ở trường đó cần phải có phần thực hành nữa, vì thế nên tôi và chừng mười sinh viên khác đang du học tại Melbourne được mời đến nói các tiếng Á đông cho họ tập nghe, tập nói những âm thanh lạ và tập khảo cứu tiếng nói.
Sau hai tuần sống ở trường, đời tôi đã thay đổi hẳn phương hướng, vậy tôi muốn kể rành mạch Đức Chúa Trời đã đưa dẫn tôi tới chỗ nhận biết Ngài như thế nào.
Khi tới trường S.I.L. ở Belgrave Heights, một vùng đồi núi gần Melbourne, tôi được các sinh viên trường đó tiếp đón rất nồng hậu và tuy rằng đó là lần đầu tiên tôi gặp nhiều người lạ như thế, mà tôi không hề thấy ngượng nghịu gì cả vì họ đối với tôi rất thân mật, thành thực và tự nhiên. Trường đó gồm hơn 70 người, quốc tịch khác nhau: Anh, Úc, Tân Tây Lan, Gia-nã-đại, Mỹ, Hòa Lan v.v... nhưng bầu không khí đầm ấm, và hòa hiệp như trong một gia đình vì học cùng một tín ngưỡng, cùng một chí hướng.
Ngày ngày tôi nói tiếng Việt cho họ nghe, buổi chiều thì tôi chơi bóng chuyền với họ, khi thảnh thơi thì cùng dạo chơi qua những khu đồi lân cận. Ăn ở với họ như thế tôi mới thấy rõ trong đời những sinh viên ấy lộ ra một niềm vui mừng, một sự bình an trong tâm hồn, một mối hy vọng, một đức tin mà tôi không có. Vì Giê-xu Christ đã giải hòa họ với Đấng Tạo Hóa, vì Chúa sống trong đời họ chăng? Họ nói thế, nhưng tôi không chịu tin và tư tưởng của Renan, triết lý của Nietzsche lại ám ảnh trí óc tôi: chỉ có những kẻ yếu đuối, thiếu nghị lực, chỉ có những kẻ hèn nhát mới hạ mình quỳ gối ăn năn tội lỗi. Tôi thấy ghét hai chữ tội lỗi và tuy tôi không hiểu rõ Kinh Thánh giải nghĩa tội lỗi thế nào, tôi cho rằng tôi không cần phải ăn năn tội lỗi gì cả.
Một buổi chiều tôi cùng đi chơi với một anh sinh viên người Singapore cũng đến S.I.L. với tôi để dạy tiếng Á. Anh ta theo đạo Tin Lành từ nhỏ và anh nói chuyện với tôi về sự cứu rỗi. Tôi không muốn nghe chút nào cả và tôi cười thầm tự nhủ nếu anh ta muốn tôi tin thì anh ta chỉ mất thì giờ thôi vì tôi sẽ không tin. Nếu anh ta tin Chúa Giê-xu Christ thì anh ta cứ việc tin, tôi không tin thì việc đó không liên hệ gì với anh ta. Tôi mải ngắm phong cảnh nên không để ý tới những lời anh ta nói và cũng chẳng buồn tranh luận với nữa.
Hơn một tuần qua, tôi càng thấy quý mến và cảm phục những người tôi cùng sống với tại trường S.I.L. Tôi nhớ Đức Khổng Tử có dạy rằng, nếu đạo làm người ta xấu, thì đạo đó cũng xấu, ta nên tránh đừng theo. Nhưng tôi đã thấy rõ ràng là tôi vẫn tưởng tôi tốt, nhưng so với họ thì tôi kém xa và tôi thấy thèm muốn được có một đức tin như họ. Tôi không tự phụ nữa, nhưng tôi vẫn nghi ngờ và thỉnh thoảng tôi lại muốn tranh luận. Có một lần tôi hỏi một sinh viên rằng: “Anh bảo rằng Chúa thương yêu nhân loại và Chúa có quyền hành trên khắp vũ trụ, vậy sao đạo Tin Lành có gần hai ngàn năm nay mà thế giới vẫn còn có chiến tranh và nhân loại vẫn khổ sở?” Anh ta không thích biện luận, nhưng cũng đáp lại: “Nước có trên quả đất này từ ức triệu năm về trước vậy sao tới giờ này vẫn còn nhiều kẻ bẩn thỉu? Vì người ta không chịu dùng nước mà tắm rửa. Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời đã xuống trần tỏ lòng thương yêu của Ngài với cả nhân loại, Ngài đã chết trên cây Thập Tự để chuộc tội lỗi cho mọi người, Ngài đã chiến thắng sự chết để tỏ cho loài người biết là nếu ai theo Ngài thì sẽ có Sự Sống, vậy sao anh còn từ chối Ngài? Anh không nhận Ngài làm Cứu Chúa, và nhờ cậy huyết Ngài rửa sạch tội lỗi của anh? Anh muốn sống một đời ích kỷ, một đời không có Chúa, đó là tội lỗi lớn nhất đó.” Anh ta có khuyên tôi nên mở Kinh Thánh ra và đọc để hiểu biết thêm, nên bỏ đời sống này và sống một đời mới.
Tối hôm đó, khi các sinh viên họp nhau cùng hát những bài ca tụng Chúa và cầu nguyện Chúa giúp họ khi rời trường S.I.L. xuất dương và mang Tin Lành đi khắp nơi, thì tôi cùng ngồi với họ. Tôi rất ngạc nhiên khi nghe họ gọi Đức Chúa Trời là “CHA” và có vẻ biết Ngài một cách thân thiết. Họ quen biết Vị Tạo Hóa như con biết cha, nhưng đối với tôi, Ngài xa lạ quá và tôi lại thấy lòng tôi khao khát được biết Đức Chúa Trời như hồi còn ở Việt Nam. Khi trở về phòng ngủ, một anh sinh viên chung phòng tặng tôi một quyển Kinh Thánh Tân Ước nhỏ. Tôi cầu nguyện trong lòng xin Chúa mở mắt tôi ra cho tôi hiểu biết những điều mà Ngài muốn dạy tôi. Tôi thành thực muốn được biết Ngài nên tôi cầu Ngài giúp đỡ tôi.
Tôi đọc sách Tin Lành Giăng và cảm thấy lòng thương yêu vô tận của Đức Chúa Trời bao bọc quanh tôi. Tôi nhận thấy Đấng Christ là “Đường Đi, Lẽ thật và Sự Sống” (Giăng 14:6)
Tôi nhận thấy tội lỗi của tôi, tôi không nhớ rõ những điều xấu xa tôi đã làm nhưng tôi thấy rõ là tính tự phụ, lòng ích kỷ và sự vô tín của tôi đã làm tôi mù quáng và đã ngăn cản tôi. “Ấy là sự sáng thật, đến thế gian soi sáng mọi người. Ngài ở thế gian và thế gian bởi Ngài dựng nên, nhưng thế gian chẳng nhận biết Ngài... Ngài đã đến trong cõi thuộc về Ngài, song những kẻ thuộc về Ngài chẳng tiếp nhận Ngài.” (Giăng 1:9-11).
Tôi tiếp nhận Giê-xu Christ làm Cứu Chúa của tôi, tôi thấy Ngài đúng là Đấng Tạo Hóa, là Đức Chúa Trời mà tôi mong muốn được biết. Tôi ăn năn tội, và tin rằng huyết Ngài đổ ra trên thập tự sẽ rửa sạch tội lỗi của tôi và cứu tôi thoát khỏi sự chết. Từ lúc đó Đấng Christ đối với tôi không phải là một người xa lạ có tên là Giê-xu, sống tại Do Thái cách đây gần 2000 năm, nhưng là Sự Thực. Trong tai tôi văng vẳng mấy câu hát tôi nghe thấy tối hôm ấy: “Ngài Sống! Ngài Sống! Tôi biết Cứu Chúa tôi sống. Ngài nói với tôi, Ngài đi cùng tôi. Trên con đường đời chật hẹp, Bạn hỏi: Sao tôi biết là Ngài sống? -Ngài sống trong chính lòng tôi.”
Đây không phải là cụ thể hóa một lý tưởng, không phải do trí tưởng tượng của tôi tạo ra và cũng không phải là kết quả của sự xúc động của tôi. Thật ra lúc đó tôi hơi thất vọng vì tôi không thấy cảm động nhiều, tôi không thấy phép lạ gì xảy ra cả. Tôi chỉ cảm thấy tâm hồn tôi bình an, lòng tôi khoan khoái, tôi thấy nhớ ơn Chúa và yêu thương Ngài, đó là đức tin Ngài đã ban cho tôi.
Ngày hôm sau, tôi phải trở lại Melbourne để kịp ngày đại học khai giảng. Tôi bèn ngỏ ý với một Mục Sư trong số những sinh viên trường S.I.L. là tôi muốn theo đạo Tin Lành. Anh ta rất mừng, nhưng khuyên tôi nên suy nghĩ kỹ lưỡng trước khi theo đạo vì nếu tôi chỉ nhận Đấng Christ làm Cứu Chúa vẫn chưa đầy đủ, khi tôi nhận Ngài, tôi phải nhìn nhận Ngài làm Cứu Chúa của chính đời tôi và phải theo Ngài đến cùng. Tôi kể lại với anh là tôi đã ăn năn tội lỗi, tôi đã thấy lòng yêu thương của Đức Chúa Trời đối với tôi và mặc dầu mọi sự cản trở tôi sẽ trung tín theo Ngài đến cùng. Anh ta cầu nguyện cho tôi, xin Chúa giúp đỡ tôi trong đời mới này. Đến bữa ăn trưa hôm đó, tôi đứng dậy và báo cho cả trường là tôi đã tin Chúa và cảm tạ họ đã cầu nguyện cho tôi trong hai tuần cùng sống với họ.
Thưa quý độc giả thân mến, đó chỉ là bước đầu của tôi trong đời sống mới trong ơn Chúa mà thôi. Khi trở về Melbourne, tôi có viết thư về nhà xin phép cha mẹ tôi và cám ơn Chúa, cha mẹ tôi tuy không bằng lòng, nhưng không ngăn cản tôi. Tôi gia nhập một Hội Thánh Tin Lành để thờ phượng Đức Chúa Trời và được nghe giảng giải Kinh Thánh. Ngoài ra, tôi được tương giao với những tín đồ đã được tái sinh như tôi, tôi nhập học Melbourne University Evangelical Union và cùng với mấy sinh viên Á, lập hội Overseas Christian Fellowship với mục đích là chia xẻ sự hiểu biết và lòng thương yêu Đức Chúa Trời cho những sinh viên Úc và Á vẫn chưa nhận Giê-xu Christ làm Cứu Chúa mình.
Nhiều lúc gặp nỗi khó khăn, lắm khi cảm thấy chán nản, hoặc nghi ngờ, hoặc phạm tội, nhưng tôi được Chúa tha thứ và Thánh Linh đã dạy tôi cần sống bằng đức tin chứ không sống bằng cảm giác. Ngài dẫn đường cho tôi khi gặp bước khó khăn, nâng đỡ khi tôi vấp ngã. Với Chúa, tâm hồn tôi đã được biết một sự bình an vô tận, lòng tôi tràn ngập một niềm vui mừng và hy vọng mà tôi chưa từng biết.
Nguyện lời làm chứng thành thực này sẽ giúp ích cho quý độc giả nào chưa nhận Chúa Giê-xu làm Cứu Chúa và chưa được hưởng lòng yêu thương của Ngài. Trước đây, tôi cũng ở vào hoàn cảnh của một số bạn trẻ, tôi tự tin ở tôi, tôi tưởng đời tôi đầy đủ, tôi tưởng tôi không thiếu thốn một điều gì cả. Nhưng tôi đã lầm to. Quãng đời cũ trước mắt tôi như cái giếng sâu thăm thẳm, đã giam cầm tôi trong hai mươi năm, khi Christ mang tôi ra khỏi đó, tôi mới biết bề sâu và sự đen tối của cái giếng ấy, từ khi Christ vào trong đời tôi, tôi mới biết thế nào là “Sự Sống dư dật” mà Ngài đã nói (Giăng 10:10)
Tôi mong các bạn sẽ có đủ can đảm nhìn vào tội lỗi của bạn, và nhớ rằng tội lỗi lớn nhất là từ chối Ngài, rồi bạn hãy nhìn lên Đấng Christ, đang mang tội lỗi của bạn trên cây Thập Tự để đem lại sự sống cho bạn. Tôi mong rằng bạn sẽ thành thực và tự hỏi mình rằng: Có nên chối bỏ Giê-xu Christ không? Có nên nhận Ngài làm Cứu Chúa mình không? Có nên theo Ngài đến cùng không? Xin bạn quyết định đi. Tôi thành thực mong rằng sẽ có vài bạn nghe tiếng tiếng Ngài kêu gọi trong lòng sẽ ăn năn quay về với Cha các bạn, tức là Đấng Tạo Hóa và Đức Chúa Trời của nhân loại - và linh hồn các bạn sẽ sống. (Ê-sai 55)
Đàm Quang Thuận
http://www.tinlanhbayarea.org/ctpttl/g0501.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Cám ơn bạn đã đọc bài viết. bạn có nhận xét gì về bài viết và quan điểm của bạn hãy để lại vài lời chia sẻ cùng mọi người. Xin lưu ý bạn, các nhận xét không có tính góp ý xây dựng sẽ bị xoá ngay. Các nội dung gõ bằng tiếng Việt, có dấu rõ ràng sẽ không làm người khác hiểu lầm. Xin trân trọng cảm ơn bạn đã ghé thăm blog.Chúa ban phước cho bạn!