Cả bạn lẫn thù của Cơ Đốc giáo đều nhận thức rằng sự phục sinh của Đấng Christ là vầng đá nền tảng cho đức tin. Trong Hội Thánh Cô-rinh-tô, một vài người thắc mắc, ngay cả phủ nhận khả năng sống lại từ cõi chết. Nghe điều này, sứ đồ Phao-lô đưa ra một lời kết luận đầy khôn ngoan: “Lại nếu Đấng Christ đã chẳng sống lại thì sự giảng dạy của chúng tôi ra luống công, và đức tin anh em cũng vô ích” (ICo1Cr 15:14).
Bằng vài lời ngắn ngủi Phao-lô đã khép lại vấn đề liên quan đến sự sống lại của thân thể Đấng Christ một cách đầy đủ. Hoặc là Chúa Giê-xu đã từ chết sống lại hoặc là Ngài không hề sống lại? Nếu Ngài đã sống lại, thì đây là một sự kiện gây rúng động trong cả lịch sử và chúng ta có những câu trả lời dứt khoát cho những vấn đề sâu xa của cuộc sống như:
Chúng ta từ đâu đến ?
Tại sao chúng ta lại ở đây?
Số phận tương lai của chúng ta ra sao?
Nếu Đấng Christ đã sống lại, chúng ta biết chắc rằng Đức Chúa Trời có hiện hữu, Ngài như thế nào và Ngài thật sự quan tâm đến mỗi cá nhân chúng ta ra sao. Từ đó vũ trụ sẽ có ý nghĩa và mục đích của nó, và chúng ta có thể kinh nghiệm Chúa hằng sống trong cuộc sống hiện đại này. Nếu Đức Chúa Giê-xu Christ người Na-xa-rét đã từ kẻ chết sống lại, thì việc này và nhiều vấn đề mở rộng khác nữa đều là sự thật.
Không phải là mơ tưởng
Mặt khác, nếu Đấng Christ không hề sống lại từ cõi chết, Cơ Đốc giáo chẳng có gì hơn là một vật trưng bày trong bảo tàng viện - không hơn không kém. Nó sẽ không có giá trị khách quan, cũng không có thật. Mặc dù đó là một tư tưởng được người ta mơ ước, thật ra nó không còn đáng cho chúng ta bận tâm nhiều như vậy. Những thánh tuận đạo trong những thế kỷ đầu tiên vừa đi vừa hát không ngập ngừng khi bước vào hang sư tử! Còn ở thế kỷ này, những kiều bào và giáo sĩ ở những châu lục khác tận hiến cuộc đời của mình sẽ vô ích và là những người ngu dại bị lừa gạt.
Những kẻ thù tấn công vào Cơ Đốc giáo thường tập trung nhiều nhất vào sự phục sinh. Người ta đã xem xét sự kiện nầy như một vấn đề chủ chốt cho toàn bộ niềm tin của Cơ Đốc nhân. Một kế hoạch tấn công đáng kể được chuẩn bị vào đầu những năm 1930 do một luật sư trẻ tuổi người Anh thực hiện. Ông đã tin quyết rằng ý tưởng về sự sống lại chỉ là một câu chuyện ngụ ngôn và tưởng tượng. Vì biết rằng đây là nền tảng của niềm tin, ông quyết định giúp đỡ thế giới bằng cách phơi bày sự giả dối và mê tín này. Là một luật sư, ông cảm thấy rằng mình có đủ khả năng phán đoán để chấp nhận hay phủ nhận mọi chứng cớ không đáp ứng thỏa đáng điều kiện của tòa án ngày nay.
Tuy nhiên, trong khi Frank Morison đang nghiên cứu những vấn đề này, một việc kỳ diệu đã xảy ra. Vấn đề không đơn giản như ông tưởng. Kết quả là chương đầu tiên trong quyển sách của ông “Ai Đã Lăn Tảng Đá? ” (Who Moved The Stone?) có tựa là: “Quyển Sách Bị Từ Chối Được Viết Ra ” (The Book That Refused to Be Written). Trong đó ông kể lại thế nào khi đang xem xét những chứng cớ, ông bị thuyết phục trái với ý muốn về sự kiện sự sống lại của thân thể.
Những dữ kiện để xem xét
Sau đây là một vài dữ kiện cần xem xét để trả lời cho câu hỏi: “Đấng Christ có sống lại không?”
Trước hết là sự kiện về những hội thánh Cơ Đốc đầu tiên. Giáo hội này đã lan tràn khắp nơi trên thế giới. Lịch sử của nó có thể quay ngược lại vào khoảng năm 32 S.C tại Palestine. Sách Công Vụ kể lại câu chuyện toàn bộ cộng đồng đã được xoay chuyển như thế nào bởi sứ điệp về Chúa Giê-xu và sự phục sinh của Ngài. Những kẻ tin ban đầu được gọi là Cơ Đốc nhân tại thành An-ti-ốt. Tại thành Tê-sa-lô-ni-ca, những lời giảng dạy của Phao-lô đã thuyết phục một số người Do Thái, một số đông những người Hy Lạp kính sợ Đức Chúa Trời và một số lượng không ít những phụ nữ nổi bật. Sứ điệp rõ ràng đã “làm đảo lộn thế giới thời đó” (Cong Cv 17:6). Họ liên tục liên hệ đến sự phục sinh như là căn bản cho những sự dạy dỗ, giảng đạo, sống và quan trọng hơn nữa - chết.
Tiếp theo là sự kiện về ngày của Cơ Đốc nhân. Chúa nhật là ngày thờ phượng của Cơ Đốc nhân. Lịch sử của nó cũng có thể được quay về vào khoảng năm 32 S.C. Một sự thay đổi như vậy trong lịch quả là khác thường. Phải có một việc gì trọng đại lắm đã xảy ra để thay đổi ngày thờ phượng của người Do Thái, từ ngày Sa-bát, ngày thứ bảy trong tuần sang ngày Chúa nhật, ngày đầu tiên trong tuần. Trong 20:7 đề cập một cách đơn giản “Ngày thứ nhất trong tuần lễ chúng ta nhóm lại” và thiết lập khuôn mẫu từ đó về sau. Cơ Đốc nhân nói rằng sự thay đổi xảy ra là do lòng mong muốn được kỷ niệm ngày Chúa Giê-xu sống lại từ cõi chết. Sự thay đổi này còn đáng lưu ý hơn nữa khi chúng ta nhớ lại rằng Cơ Đốc nhân đầu tiên là người Do Thái. Nếu sự phục sinh không là nguyên nhân cho sự thay đổi này thì còn điều gì khác nữa?
Còn có quyển sách Cơ Đốc, tức là Kinh Thánh Tân Ước. Những trang giấy chứa đựng những lời chứng độc lập với nhau về cùng sự kiện phục sinh. Ít nhất có ba người trong số đó được chứng kiến tận mắt: Giăng, Phi-e-rơ, và Ma-thi-ơ. Phúc Âm Lu-ca đưa ra bằng chứng trên cương vị một nhà sử học với bối cảnh được biết khi đi du lịch với Phao-lô và nghe ông giảng về sự phục sinh (IITi 2Tm 4:11). Phao-lô, khi viết cho các Hội Thánh trong những ngày đầu, liên hệ đến sự kiện phục sinh theo cách chứng tỏ rằng đối với ông và các độc giả của ông sự kiện đó quá quen thuộc và được chấp nhận không chút nghi ngờ. Có lý nào những con người đã góp phần thay đổi cơ cấu đạo đức của xã hội như thế lại là những người nói dối hay những tên điên bị lường gạt? Những nghi vấn này còn khó tin hơn cả sự kiện Chúa Giê-xu, Đức Chúa Trời thành nhục thể, sống lại từ kẻ chết. Không có một bằng cớ hiển nhiên nào hậu thuẫn cho một quan điểm nào khác.
Đối với cả các tín hữu hay những người không tin Chúa, có hai sự kiện về sự phục sinh cần được giải thích. Đó là ngôi mộ trống và những lần xuất hiện chắc chắn của Chúa Giê-xu sau khi Ngài bị chôn.
Giải thích về ngôi mộ trống
Lời giải thích sớm nhất là tiếng đồn cho rằng các môn đệ đã trộm xác Ngài! Trong Mat Mt 28:11-15, chúng ta có phần ký thuật về phản ứng của những thầy tế lễ cả và những trưởng lão khi bọn lính báo một tin làm điên tiết và hết sức bí ẩn rằng Chúa Giê-xu đã biến mất. Những nhà lãnh đạo tôn giáo này bèn đưa tiền cho bọn lính và bảo họ hãy đồn rằng các môn đệ đã đến lấy trộm xác Ngài khi họ ngủ gục. Câu chuyện dối trá đến nỗi Ma-thi-ơ đã không ký thuật lại. Có quan tòa nào tin bạn nếu bạn khai rằng người hàng xóm của bạn đột nhập vào nhà và ăn trộm ti-vi của bạn khi bạn ngủ không? Trong lúc ngủ mê, có ai biết được chuyện gì xảy ra? Lời chứng kiểu như vậy sẽ bị cười chê trước bất kỳ tòa án nào.
Hơn nữa, chúng ta đang đối diện với một sự việc không thể nào xảy ra được về mặt tâm lý và đạo đức. Trộm xác Chúa là một việc hoàn toàn xa lạ đối với tính cách của các môn đệ và tất cả những gì chúng ta biết về họ. Điều đó có nghĩa là họ đã phạm tội cố ý nói dối và phải chịu trách nhiệm về sự sai lầm cùng sự chết của hàng ngàn người. Chúng ta cũng không thể mường tượng được rằng có một vài môn đồ âm mưu riêng với nhau để thực hiện việc trọm xác đó mà không tiết lộ chút xíu nào với những người khác.
Mỗi môn đệ đều đối diện với sự thử thách là tra tấn, và tất cả trừ Giăng đều tuận đạo vì sự giảng dạy và niềm tin của họ. Người ta sẳn sàng chết cho điều người ta tin là thật, dù thực tế có thể là giả dối. Tuy nhiên họ không bao giờ hy sinh cho điều họ biết là dối trá. Nếu có ai chịu nói sự thật, thì chính là lúc người ấy đang hấp hối. Nếu các môn đồ đã trộm xác Chúa và Đấng Christ vẫn còn chết, thì chúng ta giải thích thế nào về những lần hiện ra của Ngài?
Giả thuyết thứ hai là những nhà cầm quyền Do Thái hoặc La Mã, đã đem cái xác đi chỗ khác. Nhưng tại sao họ phải làm như vậy? Họ đã cắt lính La Mã canh gác đặc biệt tại ngôi mộ rồi thì người La Mã được lợi chi khi dời xác đi chỗ khác? Lời giải đáp thuyết phục cho luận điểm này là những nhà cầm quyền yên lặng trước sự giảng dạy mạnh dạn của các sứ đồ về sự phục sinh tại Giê-ru-sa-lem. Những cấp lãnh đạo tôn giáo đó giận sùng sục và chắc phải làm mọi cách có thể để ngăn chặn sự lan truyền của sứ điệp này và tiêu diệt nó (Cong Cv 4:1-37). Họ bắt giam Phi-e-rơ và Giăng, đánh đập và hăm dọa hai ông là cố ý muốn bịt miệng họ.
Dù là nhà cầm quyền Do Thái hay La Mã đi chăng nữa, có một cách giải quyết rất đơn giản đối với vấn đề. Nếu bất kỳ bên nào giữ xác Đấng Christ, họ chỉ cần đem xác Ngài diễu hành khắp đường phố Giê-ru-sa-lem. Trong nháy mắt họ sẽ thành công trong việc bóp chết Cơ Đốc giáo từ trong trứng nước. Họ đã không làm việc này, đó là một lời chứng hùng hồn cho việc họ không hề giữ cái xác đó.
Một giả thuyết khá nổi tiếng khác, gọi là giả thuyết ngôi mộ sai, cho rằng mấy người đàn bà vì quá sầu muộn bị đãng trí nên đã đi lạc đường lúc trời còn tờ mờ sáng. Trong lúc bối rối họ tưởng tượng ra rằng Đấng Christ đã sống lại vì họ gặp ngôi mộ trống không.
Tuy nhiên, giả thuyết này cũng sụp đổ vì cùng một sự kiện này lại đánh tan giả thuyết trước. Nếu những người đàn bà đã vào nhầm ngôi mộ, thì tại sao những thầy tế lễ cả và kẻ thù lại không vào đúng ngôi mộ và lôi cái xác ra? Hơn nữa, không thể tưởng tượng lại có chuyện tất cả những môn đệ của Chúa Giê-xu cũng phạm cùng một sai lầm. Tất nhiên là Giô-sép người A-ri-ma-thê, chủ ngôi mộ, đã có thể giải quyết được vấn đề. Thêm vào đó, nên nhớ rằng đây là phần mộ tư nhân chứ không phải là một nghĩa địa công cộng như chúng ta tưởng tượng. Cũng không hề có một ngôi mộ nào khác ở gần đó đến nỗi họ phải lầm lẫn như vậy.
Giả thuyết bất tỉnh cũng được đề xuất để giải thích cho ngôi một trống. Theo quan điểm này thì Chúa Giê-xu không thật sự chết. Ngài bị họ báo cáo nhầm là đã chết nhưng thật ra Ngài chỉ ngất xỉu vì kiệt sức, đau đớn và mất máu. Khi Ngài được đặt nằm trong điều kiện mát lạnh của mộ phần, Ngài tỉnh lại. Ngài ra khỏi mộ và xuất hiện trước các môn đồ khiến họ nhầm tưởng rằng Ngài đã sống lại từ cõi chết.
Đây là một giả thuyết của thời hiện đại. Nó xuất hiện lần đầu tiên vào cuối thế kỷ 18. Có một điều đáng chú ý là từ xưa đến nay không có một giả thuyết nào thuộc loại này trong số những cuộc tấn công mãnh liệt nhất vào Cơ Đốc giáo. Tất cả những điều ghi chép từ ban đầu đều nhấn mạnh vào sự chết và đổ huyết của Chúa Giê-xu.
Nhưng nếu chúng ta tạm nhận là Chúa Giê-xu chỉ bất tỉnh và bị chôn sống, thì khó có thể tin được rằng Ngài vẫn sống sót được sau ba ngày trong một ngôi mộ ẩm thấp, mà không hề có thức ăn, nước uống hay bất cứ sự chăm sóc nào? Ngài có thể sống sót được trong khi bị liệm trong bảy mươi lăm cân vải liệm tẩm thuốc thơm được chăng? Ngài có thể có đủ sức để tự gỡ những tấm vải liệm ra, đẩy tảng đá ra khỏi cửa mồ, đánh bại những lính gác La Mã và đi bộ hàng dặm trên đôi chân đã bị đóng đinh? Và rồi, ngay tại điểm đó, Ngài có thể có đủ sức mạnh để hiện ra như một Đức Chúa Trời đầy vinh hiển và uy nghiêm để được thờ phượng? Một niềm tin như vậy còn quái dị hơn là tin vào một sự kiện đơn giản là sự phục sinh.
Đến cả nhà phê bình người Đức David Strauss, người không hề tin vào sự phục sinh cũng phủ nhận tư tưởng quái dị này. Ông nói rằng:
Không thể nào một Đấng mới vừa ra khỏi mồ mả, sống dở chết dở, lết thết vì yếu đuối và bệnh hoạn, đang cần sự chữa chạy của thuốc men, băng bó, phục hồi sức khỏe và sự chăm sóc dịu dàng, một Đấng cuối cùng cũng ngã quỵ không chịu đựng nổi, lại có thể gây một ấn tượng mạnh mẽ trên các môn đệ của Ngài rằng Ngài là Đấng đắc thắng sự chết và phần mộ; rằng Ngài là Chúa của Sự Sống. Điều này phải là một phần quan trọng trong chức vụ tương lai của họ. Một sự hồi sinh như thế chỉ làm giảm sút ấn tượng mà Ngài gây ra trên họ qua đời sống và sự chết của Ngài - hoặc cùng lắm chỉ đem lại cho họ một bản anh hùng ca đầy bi thương nhưng không thể nào biến sự sầu muộn của họ thành ra sự nhiệt thành hay nâng cao sự tin kính của họ thành sự thờ phượng. 1
Điều cuối cùng, nếu giả thuyết này đúng, thì chính Đấng Christ dính líu vào một sự dối trá công khai. Môn đệ của Ngài tin và rao giảng Ngài đã từ cõi chết sống lại. Chúa Giê-xu không làm gì để hủy bỏ niềm tin này, nhưng còn khuyến khích nó nữa. Giả thuyết duy nhất giải thích hợp lý về ngôi mộ trống là sự phục sinh của Chúa Giê-xu Christ từ cõi chết. Với những giáo chủ khác, mộ của họ trở thành những điện thờ. Tuy nhiên, với Đấng Christ, ngôi mộ trống là nơi Cơ Đốc nhân vui mừng hân hoan.
Những lần hiện ra của Đấng Christ
Thông tin thứ hai mà cả người tin lẫn chưa tin phải giải thích là những lần hiện ra của Đấng Christ được ghi chép lại. Mười lần hiện ra riêng biệt đã được ghi chép lại. Những lần hiện ra này bắt đầu từ buổi sáng phục sinh cho đến lúc Ngài thăng thiên kéo dài suốt bốn mươi ngày sau. Những lần hiện ra nầy đa dạng về cả thời gian, địa điểm và con người. Hai lần hiện ra cho cá nhân, Phi-e-rơ và Gia-cơ. Nhưng lần hiện ra khác là cho một nhóm các môn đệ và một lần cho một nhóm năm trăm anh em tín hữu. Mỗi lần ở một địa điểm khác nhau. Một vài lần ở trong vườn gần nơi mộ Ngài; một vài lần ở nơi Phòng Cao. Một lần trên đường từ Giê-ru-sa-lem đến Em-ma-út, và một vài lần khác ở cách xa Ga-li-lê. Mỗi lần hiện ra đều được đánh dấu bằng những hành động và lời lẽ khác nhau của Chúa Giê-xu.
Những điều dối trá hay những truyền thuyết không thể nào giải thích về ngôi mộ trống, hay phủ nhận những lần hiện ra trên nền tảng những bằng chứng như vậy. Chính những lời chứng của những người tận mắt chứng kiến - những người đã ở đó, đã nhìn thấy và nói chuyện với Ngài, khiến cho lời nói của họ trở nên xác quyết và trung thực.
Người ta cũng có rất có lý khi đề xuất trường hợp ảo giác để phủ nhận những bằng cớ được nhiều người chứng kiến tận mắt về sự hiện ra của Chúa Giê-xu sau sự đóng đinh. Lúc đầu, điều này có vẻ hợp lý cho biến cố siêu nhiên kia. Nó vẫn hữu lý cho đến khi chúng ta nhớ lại những định luật thông thường của y học hiện đại có thể ứng dụng cho hiện tượng tâm lý này. Khi chúng ta liên hệ những nguyên tắc này với bằng cớ nắm vững, chúng ta có thể thấy những điều tưởng chừng như hợp lý thật ra lại là điều không thể nào xảy ra được.
Thông thường ảo giác chỉ xuất hiện ở những người hay tưởng tượng và nhạy cảm. Nhưng Đấng Christ đã hiện ra cho đủ hạng người. Thật ra cũng có một vài người nhạy cảm, nhưng cũng có những người cứng đầu như ngư phủ Phi-e-rơ và những người có tính tình khác nhau.
Ảo giác hoàn toàn có tính chủ quan và cá nhân. Do đó, không hề có hai người kinh nghiệm một sự việc giống nhau. Trong trường hợp của sự phục sinh, Đấng Christ xuất hiện không chỉ với cá nhân mà còn với cả nhóm người, bao gồm có một lần với một nhóm hơn năm trăm người. Phao-lô nói rằng hơn phân nửa số người này vẫn còn sống và có thể kể lại sự kiện này (ICo1Cr 15:1-58).
Ảo giác thường xuất hiện vào một thời gian và địa điểm nhất định nào đó và thường kết hợp với những biến cố tưởng tượng. Tuy nhiên, những lần hiện ra của Chúa Giê-xu xảy ra ở trong nhà lẫn ngoài trời, vào buổi sáng cũng như buổi trưa, buổi chiều.
Nói chung, những kinh nghiệm tâm lý này xuất hiện trong một thời gian dài và đều đặn. Còn những lần hiện ra này lại xảy ra trong khoảng thời gian bốn mươi ngày và chấm dứt một cách đột ngột. Không ai nói rằng những việc này lại xảy ra lần nữa. Có lẽ bằng chứng thuyết phục nhất về những yếu tố của thuyết ảo giác nầy là sự kiện thường bị bỏ qua.
Để có thể kinh nghiệm những điều này, một người phải mong muốn mãnh liệt đến nỗi hướng mình đến những suy nghĩ không có thật rồi gán ghép thực tại với tưởng tượng đó.
Chẳng hạn, một người mẹ có đứa con bị tử trận nhớ lại rằng con mình thường đi làm về lúc 5:30 mỗi buổi chiều. Chiều nào bà cũng ngồi trên ghế xích đu mơ mộng và suy gẫm. Cuối cùng, bà tưởng là mình thấy con về đến cửa và nói chuyện với nó. Cho đến giờ phút đó, bà đã mất hết mọi liên lạc với thực tại.
Bị thuyết phục ngược lại với ý chí
Một người nghĩ rằng ảo giác là điều xảy ra với những môn đệ hướng tâm trí đến sự phục sinh. Sự thật là điều ngược lại - họ bị thuyết phục ngược lại với ý chí của họ rằng Chúa Giê-xu đã sống lại từ cõi chết.
Ma-ri đến mộ vào sáng Chúa Nhật đầu tiên của Lễ Vượt Qua với thuốc thơm trong tay. Tại sao? Để tẩm cho xác của vị Chúa mà bà yêu mến. Rõ ràng bà không hề trông đợi sẽ thấy Ngài sống lại từ cõi chết. Thật sự, khi mới nhìn thấy Chúa Giê-xu bà đã nhầm tưởng Ngài với người làm vườn! Bà chỉ nhận ra Ngài sau khi Ngài nói chuyện và kêu tên bà.
Khi những môn đệ khác nghe chuyện, họ đã không tin. Đối với họ, câu chuyện giống như là “một câu chuyện hoang đường.”
Cuối cùng khi Chúa Giê-xu phục sinh hiện ra cho các môn đồ, họ đã rất sợ hãi và tưởng rằng mình đang gặp ma! Họ tưởng rằng mình đang gặp ảo giác và điều đó khiến họ kinh hãi, rụng rời. Nhưng để thuyết phục họ Ngài phán: “Hãy rờ đến ta và hãy xem; ma quỷ thì không có thịt xương, mà các ngươi thấy ta có.” Ngài hỏi họ có đồ ăn gì không, và họ đưa cho Ngài một miếng cá nướng. Lu-ca đã không ghi thêm sự kiện hiển nhiên này - ma quỷ thì không ăn cá được (LuLc 24:36-43)!
Sau chót, một trường hợp cổ điển mà đến bây giờ chúng ta vẫn thường nhắc đến - Thô-ma kẻ nghi ngờ. Ông không có ở đó khi Chúa Giê-xu hiện ra với các môn đồ lần thứ nhất. Họ thuật lại cho ông sự kiện đó, nhưng ông chế giễu và không tin. Để nhấn mạnh thêm ông còn nói: “Tôi là người hay hồ nghi. Tôi sẽ không tin trừ khi tôi thấy tận mắt. Tôi là một người theo chủ nghĩa kinh nghiệm. Nếu tôi chưa đặt ngón tay tôi vào nơi dấu đinh và bàn tay tôi vào bên hông Ngài, tôi sẽ không tin.” Ông không hề có ảo giác đâu!
Giăng thuật lại cho chúng ta một câu chuyện rất sinh động (GiGa 20:1-31) về sự hiện ra của Chúa Giê-xu cho các môn đệ tám ngày sau đó. Ngài đã mời Thô-ma khám nghiệm chứng tích trên tay và hông Ngài. Thô-ma nhìn Ngài và quỳ sụp xuống tôn vinh rằng: “Lạy Chúa tôi và là Đức Chúa Trời tôi” (20:28).
Nếu một người muốn giải thích sự hiện ra của Đấng Christ bằng thuyết ảo giác thì phải hoàn toàn bỏ qua các bằng chứng này.
Điều gì đã thay đổi một nhóm môn đệ sợ hãi, nhút nhát thành những người đàn ông can đảm với lòng tin chắc chắn? Điều gì đã thay đổi Phi-e-rơ, một đêm trước khi Chúa chịu đóng đinh, vì quá lo sợ cho mạng sống mình mà ba lần chối bỏ công khai rằng ông thậm chí không biết Chúa Giê-xu. Khoảng năm mươi ngày sau đó ông trở thành một con sư tử gầm thét, liều bỏ mạng sống mình để làm chứng rằng chính ông đã thấy Chúa Giê-xu từ kẻ chết sống lại. Phải nhớ rằng Phi-e-rơ giảng bài giảng nảy lửa này vào ngày lễ Ngũ tuần tại Giê-ru-sa-lem, nơi các biến cố quan trọng đã xảy ra và nơi mạng sống của ông đang bị đe dọa. Không phải ông đang ở Ga-li-lê, cách xa hàng dặm nơi không ai có thể xác minh được những sự kiện, và những tuyên bố của ông không hề gặp một sự phản đối nào cả.
Chỉ có sự phục sinh về phần xác của Đấng Chirst mới làm nên sự thay đổi này.
Ma-ri Ma-đơ-len GiGa 20:15-18
Phi-e-rơ ở Giê-ru-sa-lem 24:34
Bảy môn đồ đang đánh cá IGi1Ga 21:1-23
Hơn năm trăm người ICo1Cr 15:5
Bảng 4.1. Những lần hiện ra sau sự phục sinh
Những chứng cớ hiện tại
Cuối cùng, có những chứng cớ hiện tại và cá nhân về sự phục sinh. Nếu Chúa Giê-xu sống lại từ cõi chết, Ngài vẫn đang sống hiện nay, sẵn sàng bước vào đời sống và thay đổi những ai mời Ngài vào trong cuộc sống của họ. Hàng ngàn người hiện giờ đang sống đồng thanh làm chứng về đời sống đã được biến cải nhờ Đức Chúa Giê-xu Christ. Ngài đã biến hóa họ như Ngài đã hứa. Ăn bánh thì chúng ta biết là ngon hay không. Lời mời gọi vẫn còn đó: “Khá nếm thử xem Đức Giê-hô-va tốt lành dường bao!” (Thi Tv 34:8). Con đường chấp nhận lời mời gọi nối kết với Đấng Christ hằng sống vẫn rộng mở cho tất cả mọi người.
Tóm lại, chúng ta có thể đồng ý với Canon B. F. Westcott, một học giả xuất sắc ở Cambridge, nói rằng: “Lẽ dĩ nhiên khi gom tất cả các bằng chứng lại, thì bảo rằng không có một sự kiện lịch sử nào được hậu thuẫn nhiều hơn qua rất nhiều cách khác nhau bằng sự phục sinh của Đấng Christ. Chỉ có một giả định trước đó cho rằng sự phục sinh là giả dối mới có thể đưa ra ý kiến cho rằng các bằng cớ về sự phục sinh còn thiếu.” 2
Đọc thêm
Green, Micheal. The Empty Cross of Christ. Downers Grove, Ill.: InterVarsity Press, 1984.
Morrison, Frank. Who Moved the Stone? Grand Rapids, Mich: Zondervan, 1987.
Wegner, Paul D. God Crucified: Monotheism and Chirstanity in the New Testament. Grand Rapids, Mich.: Eerdmans, 1999.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Cám ơn bạn đã đọc bài viết. bạn có nhận xét gì về bài viết và quan điểm của bạn hãy để lại vài lời chia sẻ cùng mọi người. Xin lưu ý bạn, các nhận xét không có tính góp ý xây dựng sẽ bị xoá ngay. Các nội dung gõ bằng tiếng Việt, có dấu rõ ràng sẽ không làm người khác hiểu lầm. Xin trân trọng cảm ơn bạn đã ghé thăm blog.Chúa ban phước cho bạn!