Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tiểu sử
Paul Claudel (tên đầy đủ: Paul Louis Charles Marie Claudel; 5 tháng 8 năm 1868 – 23 tháng 2 năm 1955) là nhà ngoại giao, nhà văn, nhà thơ Pháp.
Paul Claudel sinh ở Villeneuve-sur-Fère trong gia đình một công chức tỉnh lẻ. Cha mẹ ông, Louis-Prosper và Louise Cerveaux, cón có một người con nổi tiếng khác là nhà điêu khắc Camille Claudel, chị gái của Paul Claudel. Hồi nhỏ học ở Lycée Bar-le-Duc, tỉnh Champagne, sau gia đình chuyển lên Paris học ở Lycée Louis-le-Grand. Từ năm 1893 làm ở Bộ Ngoại giao Pháp. Từng làm lãnh sự và đại sứ ở nhiều nước châu Âu, châu Á, châu Mỹ. Paul Claudel được tặng thưởng huân chương Đại thập tự, năm 1946 được bầu làm thành viên của Viện Hàn lâm Pháp.
Paul Claudel được coi là nhà thơ cuối cùng của phái ấn tượng, là nhà thơ có khuynh hướng hoài cổ và tôn giáo. Theo lời của chính Paul Claudel thì cuốn sách gối giường của ông là Kinh Thánh và tất cả sáng tác của ông làm thành một cuốn Kinh Thánh mới. Paul Claudel không quan tâm đề tài về "những người nào" mà "họ phải trở thành những người nào". Với vai trò của một nhà thuyết giáo, ông làm thơ theo thể tự do (chịu ảnh hưởng của Walt Whitman) và những bài văn xuôi theo phong cách Kinh Thánh mà, theo lời ông, thể hiện nhịp điệu tự nhiên của trái tim và hơi thở con người. Những tác phẩm thơ nổi tiếng nhất của ông có thể kể đến Cinq grands odes (Năm bài ode lớn, 1910), La cantate а trois voix (Bản đại hợp xướng dành cho ba giọng, 1931). Ngoài ra, rất nhiều vở kịch của ông được dựng thành những bộ phim nổi tiếng. Ông mất ở Paris năm 1955.
Tác phẩm
Kịch
* Tête d'or (1890)
* La Jeune Fille Violaine (1892)
* La Ville (1893)
* L'Échange; Tête d'Or (1894)
* La Jeune Fille Violaine (1901)
* Le Repos du septième jour (1901)
* L'Otage (1911)
* L'Annonce faite à Marie (1912)
* L'Ours et la Lune (1917)
* Le Pain dur (1918)
* Les Choéphores d'Eschyle (1919)
* Le Père humilié (1920)
* Les Euménides d'Eschyle (1920)
* Protée (1920)
* Le Soulier de satin (1929)
* Le Livre de Christophe Colomb (1933)
* Jeanne d'Arc au bûcher (1939)
* La Sagesse ou la Parabole du destin (1939)
* L'Histoire de Tobie et de Sara (1942)
* Partage de midi (1948)
* Protée (1949)
Thơ
* Connaissance de l'Est (1896)
* Poèmes de la Sexagésime (1905)
* Processionnal pour saluer le siècle nouveau (1907)
* Corona benignitatis anni dei (1915)
* La Messe là-bas (1919)
* Poèmes de guerre (1914-1916) (1922)
* Feuilles de saints (1925)
* Cent phrases pour éventails (1942)
* Visages radieux (1945)
* Accompagnements (1949)
Văn xuôi
* Positions et propositions (2 tập, 1928, 1934)
* L'Oiseau noir dans le soleil levant (1929)
* Conversations dans le Loir-et-Cher (1935)
* Figures et paraboles (1936)
* Contacts et circonstances (1940)
* Seigneur, apprenez-nous à prier (1942)
* L'Œoeil écoute (1946)
* Emmaüs (1949)
* Une voix sur Israël (1950)
* L'Évangile d'Isaïe (1951)
* Paul Claudel interroge l'Apocalypse (1952)
* Paul Claudel interroge le Cantique des Cantiques (1954)
* Conversation sur Jean Racine (1956)
* Sous le signe du dragon (1957)
* Qui ne souffre pas... Réflexions sur le problème social (1958)
* Présence et prophétie (1958)
* La Rose et le rosaire (1959)
* Trois figures saintes pour le temps actuel (1959)
Nhật ký
* Mémoires improvisés. Quarante et un entretiens avec Jean Amrouche (1954)
* Journal. Tome I : 1904-1932 (1968)
* Journal. Tome II : 1933-1955 (1969)
Thư từ
* Correspondance de Paul Claudel et André Gide (1899-1926) (1949)
* Correspondance de Paul Claudel et André Suarès (1904-1938) (1951)
* Correspondance de Paul Claudel avec Gabriel Frizeau et Francis Jammes (1897-1938) (1952)
* Correspondance Paul Claudel et Darius Milhaud (1912-1953) (1961)
* Correspondance de Paul Claudel et Aurélien Lugné-Poë (1910-1928) (1964)
* Correspondances avec Copeau, Dullin, Jouvet (1966)
* Correspondance de Jean-Louis Barrault et Paul Claudel (1974)
* Correspondance de Paul Claudel et Jacques Rivière (1907-1924) (1984)
* Lettres de Paul Claudel à Élisabeth Sainte-Marie Perrin et à Audrey Parr (1990)
* Correspondance diplomatique. Tokyo (1921-1927) (1995)
* Correspondance de Paul Claudel et Gaston Gallimard (1911-1954) (1995)
* Le Poète et la Bible, volume 1, 1910-1946 (1998)
* Le Poète et la Bible, volume 2, 1945-1955 (2002)
* Correspondance de Paul Claudel avec les ecclésiastiques de son temps. Volume I, Le sacrement du monde et l'intention de gloire (2005)
* Une amitié perdue et retrouvée: correspondance de Paul Claudel et Romain Rolland (2005)
Một bài thơ
Ballade
Ta đã từng ra đi biết bao lần, nhưng lần này – lần cuối.
Những người thân yêu ta bỏ lại. Con tàu không đợi, ta giã biệt trên đường.
Cảnh như thế này lặp lại đã nhiều lần, nhưng lần này – lần cuối.
Còn các bạn nghĩ rằng: ta biết đi đâu? Ta đang đi – hãy nhìn xem.
Vĩnh biệt mẹ! Sao mẹ khóc như người đang còn hy vọng hay ngờ vực?
Cái điều không thể khác, không đáng khóc, không đáng để nước mắt rơi từ đôi mắt của ta.
Hay các bạn quên rằng ta là bóng và đi, như bóng, các bạn cũng là bóng, bóng ma?
Ta đã không còn bao giờ gặp mặt.
Ta chia tay những người phụ nữ: những người vợ chung thủy, những bạn gái, những người đáng trách.
Đã đành với tiếng thì thầm của phụ nữ: ta cô đơn, ta nhẹ nhàng như đứng trước tận cùng.
Nhưng trong giây phút cuối, trong giờ này ủ rũ và trang nghiêm
Cho phép ta nhìn vào gương mặt của em, một khi ta chưa trở thành người khác
Một khi ta chưa biến mất. Hãy cho ta nhìn vào gương mặt của em! Còn sau đấy thì em sẽ nhìn kẻ khác
Nhưng em hãy nói với ta dù chỉ một lời, rằng em sẽ yêu đứa con
Đứa con trai, linh hồn và máu của ta: cái tên “cha” sẽ trao cho người khác.
Ta đã không còn bao giờ gặp mặt.
Vĩnh biệt nhé, bạn bè! Ta ở quá xa để có thể làm cho bạn bè tin tưởng
Chỉ sự tò mò và mạnh dạn. Mặt đất mà các bạn chưa từ giã một lần, gọi là bền vững cho mình.
Hãy để lại những thứ gì ta đã nhận, như một món quà, như mạch nguồn của sự vui vẻ bất thình lình:
Hiểu biết về sự uổng công và cái chết của con người, chỉ có ở những ai cho rằng mình đang sống.
Tất cả vẫn còn đây: khôn ngoan và đần độn, trống rỗng và dày đặc.
“Cuộc sống tự do, khoa học và nghệ thuật…” Ô, những anh em này có còn ở trong ta?
Có cho phép ra đi, nếu tĩnh lặng các người không thể đem cho?
Ta đã không còn bao giờ gặp mặt.
Tiền đề
Các bạn ở lại, chúng tôi đã lên tàu, những cánh cửa lúc này đóng chặt.
Không còn gì ngoài khói trên trời. Đừng đợi rằng chúng tôi sẽ còn quay lại trần gian.
Không còn gì ngoài mặt trời và nước của Chúa Trời, như trong buổi đầu tiên.
Ta đã không còn bao giờ gặp mặt.
Bản dịch của Nguyễn Viết Thắng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Cám ơn bạn đã đọc bài viết. bạn có nhận xét gì về bài viết và quan điểm của bạn hãy để lại vài lời chia sẻ cùng mọi người. Xin lưu ý bạn, các nhận xét không có tính góp ý xây dựng sẽ bị xoá ngay. Các nội dung gõ bằng tiếng Việt, có dấu rõ ràng sẽ không làm người khác hiểu lầm. Xin trân trọng cảm ơn bạn đã ghé thăm blog.Chúa ban phước cho bạn!