Trong bài: Quan điểm của Hồ Chí Minh về đề cao sự tương đồng, tôn trọng sự khác biệt giữa tôn giáo và chủ nghĩa xã hội, Tạp chí nghiên cứu tôn giáo (Số 5(41)/2006), của Phạm Hữu Xuyên, Th.S, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh viết: Có thể nói, quan điểm đề cao sự tương đồng, tôn trọng sự khác biệt giữa tôn giáo và chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh là một quan điểm có tác dụng to lớn trong việc tăng cường sự hiểu biết, mối thiện cảm, sự tôn trọng lẫn nhau giữa những người cộng sản với quần chúng có đạo.
I. Hồ Chí Minh đề cao sự tương đồng giữa tôn giáo và chủ nghĩa xã hội
Cụ Hồ đã từng trả lời một nhà báo khi nói về vấn đề tôn giáo, Cụ Hồ nói: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó, chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng những có điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên cõi đời này, nếu họ hợp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mĩ như những người bạn thân thiết.
Tôi cố gắng làm người học trò của các vị ấy”. (Viện nghiên cứu Tôn giáo. Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng. Nxb KHXH, Hà Nội, 1998, tr. 13.)
Bằng cách so sánh hết sức giản dị, chân thực giữa tôn giáo và cộng sản, Hồ Chí Minh đã làm nổi bật lên điểm tương đồng trong mục tiêu của cộng sản và tôn giáo: “Đường lối mục đích của Chính phủ gồm 3 mục tiêu sau đây:
1. Giải phóng nhân dân khỏi đói rét (khổ sở) và khỏi dốt.
2. Đem lại cho nhân dân tự do, tự do sống, tự do tín ngưỡng.
3. Bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc.
Nếu cộng sản mà thực hiện những việc trên đây, tôi tin rằng mọi người sẽ chấp nhận thứ cộng sản đó”.(Trần Tam Tỉnh. Thập giá và lưỡi gươm, Nxb Trẻ TP. Hồ Chí Minh, 1988, tr. 74.)
Người còn nói: “Mục đích Chính phủ ta theo đuổi là chiến đấu vì nền độc lập và đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Song để đạt tới hạnh phúc đó cho mọi người cần phải xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nếu Đức Chúa Giêsu sinh ra vào thời đại chúng ta và phải đặt mình trước những nỗi khổ đau của người đương thời, chắc Ngài sẽ là một người xã hội chủ nghĩa đi tìm con đường cứu khổ loài người”.
Tháng 3-1955, khi nói chuyện với đại biểu đại hội Công giáo toàn quốc tại Hà Nội, Hồ Chí Minh tâm sự rất cởi mở và thẳng thắn: “Các cụ, các cô, các chú biết tôi là người không có đạo, là người cộng sản theo chủ nghĩa Mác – Lênin, suốt đời hi sinh đấu tranh giành độc lập cho Tổ quốc, tự do cho đồng bào. Nay nước ta đã được giải phóng khỏi ách thực dân, nhân dân ta được hòa bình, độc lập, tự do. Tôi và Đảng, Chính phủ lo cơm ăn, áo mặc, các cháu được học hành, người ốm có thuốc vào bệnh viện để chữa bệnh, đời sống tinh thần, vật chất ngày càng ổn định và nâng cao, để xây dựng lại đất nước cho giàu đẹp, đồng thời đấu tranh vì hòa bình, thống nhất đất nước, cho Nam Bắc sum họp một nhà.
Các cụ, các cô, các chú cùng với chúng tôi lo làm cái việc đó có gì mâu thuẫn hay sai trái với giáo lí của đạo, lời dạy của Chúa Giêsu không? Bà con giáo dân của các cụ, các cô, các chú cũng cần phải ăn, mặc, học hành, chữa bệnh, ai ai cũng muốn đời sống yên ổn. Cải thiện, sống hạnh phúc và đoàn tụ gia đình có phải không?”. (Báo Người Công giáo Việt Nam, ngày 19-5-1985).
Hồ Chí Minh cũng đã nhiều lần ca ngợi đạo đức của những người sáng lập ra các tôn giáo. Người nói về Chúa Giêsu: “Gần hai mươi thế kỉ trước, một vị thánh nhân đã ra đời. Cả đời Người chỉ lo cứu thế độ dân, hi sinh cho tự do bình đẳng”. Người ca ngợi đạo đức của Phật Thích Ca: “Phật Thích Ca là một người quý tộc. Người đã bỏ hết công danh phú quý để cứu vớt chúng sinh”. Như vậy, thông qua đạo đức của Lênin, biểu tượng cao nhất của đạo đức cộng sản và thông qua đạo đức của các vị sáng lập ra các tôn giáo, Hồ Chí Minh muốn nhấn mạnh, đề cao điểm tương đồng giữa đạo đức tôn giáo và đạo đức cộng sản.
Ở đây chúng ta thấy rằng, nếu ca ngợi đạo đức tôn giáo thì nhiều người trước Hồ Chí Minh đã đề cập đến. ở Việt Nam đầu thế kỉ XX, Phan Bội Châu cũng đã ca ngợi đạo đức Công giáo: “Tôn giáo này chuyên trọng linh hồn, mà không trọng thể xác, phải giữ mười điều răn: Kính trọng cha mẹ, không thờ thần tượng, không tham của người, không tà dâm, không lừa dối, điều quan trọng nhất là thương người như thương mình, luôn luôn dạy cho người ta phải biết nhẫn nại, chịu khốn khổ”.
Hồ Chí Minh hiểu rất rõ giá trị những tinh hoa của văn hóa truyền thống cũng như những tinh hoa của văn hóa nhân loại, trong đó có sự đóng góp rất lớn của văn hóa các tôn giáo. Từ năm 1943 khi nói về văn hóa Người nhấn mạnh: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát sinh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”.
Ngay khi nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa mới ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra sắc lệnh “ấn định nhiệm vụ Đông phương Bác cổ học viện” trong đó nêu rõ:
“… Điều 1: Đông phương Bác cổ học viện có nhiệm vụ bảo tồn tất cả cổ tích trong toàn cõi Việt Nam.
… Điều 4: Cấm phá hủy những đình chùa, đền, miếu, hoặc những nơi thờ tự khác: cung điện, thành quách cùng lăng mộ chưa được bảo tồn.
Cấm phá hủy những bi kí, đồ vật, chiếu sắc, văn bằng, giấy má, sách vở có tính tôn giáo hay không, nhưng có ích cho lịch sử mà không bảo tồn”.
II. Hồ Chí Minh tôn trọng và chấp nhận sự khác biệt giữa tôn giáo và chủ nghĩa xã hội
Khi cần nói về sự khác nhau giữa tôn giáo và chủ nghĩa duy vật, Người thẳng thắn nói rõ: “Chủ nghĩa duy linh và chủ nghĩa duy vật là khác nhau, rõ ràng là thế. Nhưng không vì thế mà chà đạp lên quyền tự do của nhau”.
Như vậy, rõ ràng là Hồ Chí Minh chấp nhận sự khác nhau giữa hai hệ tư tưởng duy tâm và duy vật, nhưng cũng phải nhận thấy một điều là Hồ Chí Minh không chấp nhận việc lợi dụng sự khác nhau đó để bôi nhọ, xuyên tạc, mạt sát, chế diễu lẫn nhau, điều đó tức là chà đạp lên quyền tự do, xúc phạm lẫn nhau. Đó là những điều trái hẳn với những nguyên tắc sinh hoạt dân chủ ở những nước văn minh, trái hẳn với những nguyên tắc ứng xử khoan dung, độ lượng mà Hồ Chí Minh luôn giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ cần phải thực hiện đối với mọi tầng lớp đồng bào dù họ có chính kiến, có tín ngưỡng khác nhau.
Khi góp ý phê bình để sửa đổi lối làm việc của cán bộ, chiến sĩ, Người thẳng thắn chỉ ra: “Cũng vì bệnh hẹp hòi mà không biết cách xử trí khôn khéo với các hạng đồng bào như tôn giáo, quốc dân thiểu số, anh chị em trí thức, các quan lại cũ…” (20). Kiên quyết phê bình sự hẹp hòi trong ứng xử với tôn giáo, điều đó còn nói lên sự tôn trọng những ý kiến, những quan niệm khác biệt của đồng bào có đạo, vì Người hiểu rất rõ chỉ có đề cao sự tương đồng, tôn trọng và chấp nhận sự khác biệt giữa tôn giáo và chủ nghĩa xã hội, đó là con đường để đồng bào có đạo xoá dần mặc cảm, định kiến hăng hái đi theo con đường của dân tộc, của chủ nghĩa xã hội và làm cho khối đoàn kết dân tộc ngày càng được củng cố.
Một vấn đề thực tiễn đặt ra là khi được hỏi người Công giáo có thể vào Đảng Lao động Việt Nam không? Người trả lời: “Người tôn giáo nào cũng vào được, miễn là trung thành hăng hái làm nhiệm vụ, giữ đúng kỉ luật của Đảng. Nước ta kinh tế lạc hậu, kĩ thuật kém, tôn giáo là duy tâm, cộng sản là duy vật nhưng trong điều kiện hiện tại, người theo đạo vẫn vào Đảng được”. Như vậy, Hồ Chí Minh chấp nhận sự khác biệt giữa tôn giáo và cộng sản nhưng Người không bao giờ cho rằng sự khác biệt đó nhất thiết dẫn tới sự biệt lập.
( entry có sử dụng lại tài liệu của Phạm Hữu Xuyên, Th.S, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng. Nxb KHXH, Hà Nội, 1998,Viện nghiên cứu Tôn giáo;. Trần Tam Tỉnh. Thập giá và lưỡi gươm, Nxb Trẻ TP. Hồ Chí Minh, 1988; Hồ Chí Minh. Toàn tập…)
thư gửi bác sĩ Vũ Đình Tụng, một trí thức công giáo tiêu biểu tham gia kháng chiến, Hồ Chủ tịch viết:
“Gửi bác sĩ Vũ Ðình Tụng,
Thưa ngài,
Tôi được báo cáo rằng: Con giai ngài đã oanh liệt hy sinh cho Tổ Quốc.
Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột.
Nhưng cháu và anh em thanh niên khác dũng cảm hy sinh để giữ gìn đất nước. Thế là họ đã làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi. Họ chết cho Tổ Quốc sống mãi; vật chất họ mất nhưng tinh thần họ vẫn luôn luôn sống với non sông Việt Nam.
Họ là con thảo của Ðức Chúa, họ đã thực hiện cái khẩu hiệu: Thượng đế và Tổ Quốc. Những thanh niên đó là dân tộc anh hùng. Ðồng bào và Tổ Quốc sẽ không bao giờ quên ơn họ.
Ngài đã đem món của quý báu nhất là con của mình, sẵn sàng hiến cho Tổ Quốc. Từ đây chắc ngài sẽ thêm ra sức giúp việc kháng chiến để bảo vệ nước nhà thì linh hồn cháu ở trên trời cũng bằng lòng và sung sướng.
Tôi thay mặt Chính phủ cảm ơn ngài, và gửi ngài lời chào thân ái và quyết thắng.
Tháng 1 năm 1947
Hồ Chí Minh
(St)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Cám ơn bạn đã đọc bài viết. bạn có nhận xét gì về bài viết và quan điểm của bạn hãy để lại vài lời chia sẻ cùng mọi người. Xin lưu ý bạn, các nhận xét không có tính góp ý xây dựng sẽ bị xoá ngay. Các nội dung gõ bằng tiếng Việt, có dấu rõ ràng sẽ không làm người khác hiểu lầm. Xin trân trọng cảm ơn bạn đã ghé thăm blog.Chúa ban phước cho bạn!